Logo Footer

CHÙA HƯƠNG TRAI – DƯƠNG LIỄU

Chùa Hương Trai (Cổ Trai tự hay Hương Trai cổ tự): Theo bài văn khắc trên bệ đá hoa sen của chùa, chùa được dựng vào năm Đại Trị thứ năm, đời Trần Dụ Tông (năm 1360). Chùa Hương Trai là một công trình kiến trúc tôn giáo khá lớn, nổi tiếng từ thời Trần, đến thời Mạc được mở rộng quy mô với một số tòa nhà và tượng đến nay vẫn còn, suốt các thế kỷ đó chùa vẫn luôn được gia tăng và đều có dấu ấn, là bằng chứng của một làng quê văn hóa và văn hiến. Chùa đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, công nhận là Di tích lịch sử văn hóa, danh thắng theo quyết định số 29-VH/QĐ ngày 13 tháng 01 năm 1964.

Tam quan chùa Hương Trai

Vị trí

Chùa Hương Trai được xây dựng vào thời nhà Trần. Chùa tọa lạc trên thế đất hoa sen nhìn ra sông Đáy (hướng Tây-Tây Bắc), theo phong thủy, là nơi “Tụ thủy tụ phúc, lưu thủy lưu phúc”. Khuôn viên chùa trước kia chỉ gồm các công trình: Tả – hữu hành lang, Tam Quan, Tam Bảo (bao gồm Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện). Trong quá trình tồn tại, chùa đã có thêm: nơi thờ Thánh Tăng, điện Mẫu, nhà Tổ, nhà Ni, thiền viện, bếp và các công trình phụ khác.

Cổng Tam Quan

Ngay sát chân đê là cổng Tam quan, và cũng là gác chuông. Các bậc gạch dẫn từ đê xuống nghi môn, gồm 2 trụ biểu đắp câu đối chữ Hán. Phía bên trong là tòa Tam quan được thiết kế với 3 gian 2 chái, kiến trúc chồng diêm, gồm 2 tầng 8 mái. Phía bên trên gác treo 1 quả chuông lớn đề tên chữ hán “Hương Trai tự chung”, cao 123cm, được đúc vào năm Gia Long thứ 13. Thời điểm này gắn với sự kiện lịch sử vào năm 1814, vua Gia Long ban lệnh cấm nhân dân miền Bắc không được đúc chuông và xây chùa. Gian bên phải tam quan treo chiếc khánh có tên “Hương Trai tự khánh, Quý Dậu trùng tu”.

Các gian chính

Phía sau cổng tam quan là 1 lối đi dài dẫn tới khu chùa chính, có cấu trúc chữ “Công”, mang kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam trong giai đoạn cuối Thế kỷ 16 và Thế kỷ 17. 

Cấu trúc Tiền đường gồm 5 gian 2 chái, các gian có chiều dài bằng nhau và rộng 5,58m, gian giữa có chiều dài lớn nhất 3,6m. Nền Tiền đường cao hơn sân khoảng 45cm, được dựng từ kết cấu bộ khung gồm 4 hàng cột, trong đó có 2 hàng cột Cái và 2 hàng cột Quân. Các cột đứng trên các chân tảng bằng đá trắng trong đó có 4 chân tảng chạm hoa sen. 

Tòa Thiêu hương là một nếp nhà 3 gian chạy dọc, dài 6,4m – rộng 6,66m. Nền Thiêu hương cao hơn 45cm so với Tiền đường, nối vuông góc tiền đường với Phật điện. Kết cấu bộ khung với 4 hàng cột, các cột đứng trên chân tảng đá xanh. 

Thượng điện gồm 1 gian 2 chái, dài 7,44m – rộng 6,05m. Nền Thượng điện cao hơn nền Thiêu hương 71cm. Mặt nền của Thượng điện có cấu trúc gần vuông, nếu bao gồm cả phần hiên sau. Xung quanh Thượng điện được bưng kín bằng ván Đố lụa. Hệ thống bộ khung bao gồm 4 hàng chân cột, các chân cột đứng trên các chân tảng đá xanh.

Các cột ở tam bảo đều làm bằng gỗ mít. Trong đó, mỗi cột Cái cao 3m, chu vi 1,64m; cột Quân cao 1,93m, chu vi 1,54m.  

Điêu khắc – Trang trí

Phần lớn những họa tiết trang trí trong chùa tập trung ở Thiêu hương, với một số chủ đề như vân Xoắn lớn, Rồng Cúc, người,… Các chi tiết được chạm khắc theo phong cách của thế kỷ 16. 

Hình Rồng được chạm ở các đầu Dư, ván Lá đề, một số con rường hiện nay còn thấy những mảng nhỏ của trang trí Rồng. Trong số đó còn giữ được bốn đầu Dư hình Rồng chỉ chạm phần đầu và một ít thân, miệng ngậm ngọc. Rồng có tai dài nhọn, mắt tròn to lồi hẳn ra ngoài, dưới mắt có đao nhỏ, mảnh và bay nhẹ. Thân Rồng được phủ lớp vẩy to và thưa. Một số con rường cũng chạm hình Rồng, tuy nhiên những trang trí này đều đã bị cắt đoạn, đôi chỗ chỉ còn phần thân với thân mảnh và vẩy to. Kỹ thuật chạm phổ biến ở những hình Rồng này là kỹ thuật chạm nổi, đôi chỗ sử dụng chạm bong kênh và chạm thủng.

Hình Lân được chạm ở một số đầu các con rường trong tư thế nghiêng nhưng đầu và mặt lại quay ra nhìn về phía chính diện, chân trước khuỵu xuống thấp. Trên thân mình Lân phủ vẩy thưa, lưng được chạm vảy như vây cá.

Hình Hươu chạm ở mặt sau 2 con rường của vì Nóc ở Thiêu hương, được đặt trong khung hình bầu dục trong tư thế chồm về phía trước, 2 chân trước khuỵu xuống, đầu ngoảnh lại phía sau. Hươu có thân mình tròn lẳn, chân nhỏ, mõm dài, phía trên đầu trang trí bằng nhiều lá Cúc và vân Xoắn.

Hình người được chạm trên trụ Trốn, trên ván Lá đề của vì Nóc và tượng tròn các tiên nữ gắn ở đầu trụ. Trên 2 trụ Trốn của vì Nóc thứ 3 chạm hình phỗng bụ bẫm, cởi trần, đầu quấn khăn, ngồi xổm, chân dạng, tay giơ lên đỡ đấu Sen.

Trên ván Lá đề của vì Nóc thứ nhất có chạm hình tiên cưỡi Rồng khá sống động, tay giơ ra hai bên, xung quanh là đao mác mảnh và những vân Xoắn. Các tượng tròn gắn trên các đấu đầu cột đều có kích thước 0,6m và trang phục tương đối giống nhau.

Hoa văn vân Xoắn, Cúc: Những vân Xoắn lớn chiếm toàn bộ diện tích trang trí trên các con rường, đôi chỗ điểm xuyết những vân Xoắn nhỏ hoặc hoa cúc. Kỹ thuật phổ biến là chạm chìm và chạm nổi để tạo hiệu quả về khối. Cùng với vân Xoắn lớn, Cúc cũng là đề tài tương đối phổ biến trong những trang trí trên kiến trúc tại chùa Hương Trai. Hoa cúc thường được chạm độc lập ở thân hoặc đầu trụ Trốn, hoặc phối hợp với các trang trí khác trên các con rường, được tả thực sinh động và thường đặt trong bố cục nhìn thẳng. Nhụy hoa khá lớn, được tỉa từng nét bằng kỹ thuật chạm nổi.

Hoạ tiết trên bệ đá hoa sen trong Hương Trai Tự (quy trình dập màu trên giấy chu sa)

Hệ thống tượng Phật

        Nhắc đến chùa Hương Trai, bên cạnh giá trị về lịch sử, kiến trúc, không thể không nhắc tới hệ thống tượng và đồ thờ. Số lượng tượng thờ khá phong phú, đầy đủ, đa phần mang phong cách thời nhà Nguyễn. Chùa gồm 47 pho tượng cổ, trong đó có 38 pho ở chùa chính, 8 pho ở nhà Mẫu và 1 pho ở nhà Tổ.

        Trong tòa thượng điện, ở gian giữa trên bệ đá hoa sen là bộ Tam thế, tiếp xuống là Bộ Di Đà Tam Tôn, rồi Di Lặc với Văn Thù Bồ tát, Bồ tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng ở bên trái. Các gian phía trong bên trái có Quán Âm Thiên Thủ, bên phải có Quán Âm Thị Kính, còn 2 góc bên ngoài có Thổ địa và Giám trai. Tòa thiêu hương có Ngọc Hoàng ở giữa, 2 bên có 2 tiên nữ ngồi hàng ngoài, phía ngoài còn có bộ tượng Nam Tào và Bắc Đẩu. Tòa tiền đường ngoài Hộ pháp, Đức Ông và Thánh Hiền, còn có thêm 2 bộ tượng Quán Âm tọa sơn mà dân gian gọi là bà Tây Năng dạy dân trồng dâu nuôi tằm. Các tượng được làm theo công thức với xu thế tự nhiên thuộc phong cách thời Nguyễn.

        Trái lại, phần lớn tượng ở thượng điện lại sớm hơn nhiều: bộ tượng Tam thế dáng đường bệ, đường nét rõ ràng, ngực đeo anh lạc, giữa các pho tượng phần nào thể hiện tính tự nhiên, tự do rõ nhất ở tư thế để tay vào trang phục, các tòa sen đều có cánh mập với những trang trí nổi cao, gần gũi với nghệ thuật thời Mạc. Tòa Văn Thù và Phổ Hiền phần nào đã thanh hơn, đường nét trau chuốt, hoa văn ở ngực có kết cấu vừa phải, có thể thuộc thế kỷ XVII. Các pho A Di Đà và Di Lặc đều ngồi trên bệ sen trơn, ít chú ý đến họa tiết mà tập trung vào khối hình căng chắc, có thể gắn với phong cách thế kỷ XVIII.

        Tại chùa Hương Trai, kiểu tượng Quán Thế Âm đứng cạnh ngựa được các nhà nghiên cứu xếp vào nhóm tượng Mã đầu Quán Âm, 1 loại tượng phổ biến trong chùa ở Trung Quốc mà ở miền Bắc nước ta chưa tìm thấy pho tượng nào giống với những mô tả trong sách Quán Thế Âm và Lục Quán Âm. Ở Bắc Bộ đã thống kê được 7 pho tượng xếp vào nhóm tương tự Mã đầu Quán Âm, cùng niên đại thế kỷ XIX, được làm từ 2 chất liệu gỗ và đất với chiều cao trung bình 90-110cm, ngang vai 27-30cm. 

Di vật

        Bệ đá hoa sen là 1 trong những cổ vật quý trong chùa, xuất hiện từ thời nhà Trần. Trong số hơn 20 bệ đá hiện còn, chỉ 8 chiếc có khắc năm chế tác, 7 chiếc có niên đại vào thời Trần, trong đó bệ đá cổ nhất thuộc về chùa Hương Trai (Hoài Đức, Hà Nội), được làm vào tháng giêng năm 1370.

        Bệ đá có hình hộp chữ nhật, được đúc từ đá nguyên khối với kích thước cao 1,19m, rộng 1,32m và dài 3,67m. Mặt bệ là tòa sen khổng lồ tựa ở tư thế “mãn khai” (đã nở hết), với 2 lớp cánh ngửa, một lớp cánh úp. Lớp ngửa có cánh sen dài, mập nhọn ở đầu. Lớp úp cánh nhỏ, đầu tròn. Thân bệ thu nhỏ hơn mặt bệ. Bốn góc của bệ được chạm khắc 4 con chim thần Garuda, mình thú đầu chim, trong tư thế ngồi xổm đưa 2 tay lên đỡ tòa sen. (Chim thần Garuda là 1 hình tượng có nguồn gốc từ Ấn Độ, được du nhập vào Việt Nam từ khá sớm và được thể hiện rõ nét nhất trong nghệ thuật Champa). Chữ “vương” trên trán chim thần thể hiện đây là chúa muôn loài.

        Mặt trước và 2 mặt bên của bệ chia thành nhiều ô, mỗi ô chạm rồng, mây, hoa dây. Rồng ở đây đường nét sơ khai: rồng đơn, uốn lượn, không sừng. Các đường gờ vòng quanh chia thân bệ thành nhiều lớp, đế bệ nở to hơn phần thân, tạo thế chân quỳ dạ cá, làm nên dáng đứng vững chãi cho bệ đá. Một số nhà nghiên cứu cho rằng những đường nét chạm khắc trên bệ đá tại chùa Hương Trai mang phong cách Ấn Độ. Mặt sau bệ đá khắc chữ Hán, nội dung đề cập tới việc dựng chùa. Theo đó, chùa được xây dựng vào năm Đại Trị thứ 5, đời vua Trần Dụ Tông (năm 1360).

        Bệ đá hoa sen thường tọa lạc trong những ngôi chùa làng, hầu như không thấy xuất hiện trong những ngôi quốc tự hay những ngôi chùa do triều đình phong kiến xây dựng. Trên những bệ đá có khắc văn tự, chữ viết thường nguệch ngoạc, nét không đều, không chuẩn tắc, khác hẳn văn tự trên bi ký. Qua đó cho thấy bệ đá hoàn toàn là sản phẩm của các thợ khắc đá nơi làng quê, nên mang tính chất nghệ thuật dân gian. Nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ nhận định: “Khoảng cuối thời Trần có một hiệp thợ chạm khắc đá ở tả ngạn sông Đáy thuộc tỉnh Hà Đông cũ, đã làm cho vùng quê mình những chiếc bệ đá hoa sen hình hộp có ghi niên đại hẳn hoi, để ở các chùa làng…”.

        Bên cạnh bệ đá, trong chùa còn có 2 tấm bia đá: Bia “Tiền hiền từ bi” và bia “Tự sự bi ký”. Bia “Tiền hiền từ bi” được tạo vào năm Hoằng Định thứ 19 (1618), với kích thước 0,52 x 0,86 x 0,13m, đề tên mẹ con ông Nguyễn Mậu Tài và danh sách các vị khoa bảng được thờ cúng ở Văn chỉ. Bia “Tự sự bi ký” được khắc năm Cảnh Thịnh thứ 6 (1798), có kích thước 0,72 x 1,16 x 0,12m, ghi việc các quan viên, hương lão giáp Hương Nhai, xã Dương Liễu dựng bia thờ Lý Tiên sinh. Ngoài ra còn có cây hương đá “Công đức Hương Trai tự thiên trụ ký”, được dựng năm Chính Hòa thứ 7 (1686), phần đỉnh tạo hình hoa sen, xung quanh để trơn không trang trí.

        Gác chuông chùa Hương Trai có treo một quả chuông lớn đúc vào thời Gia Long. Thành chuông vát, đỉnh phẳng với quai vồng lên, miệng loe, thành đáy nổi giờ. Quai chuông được cấu tạo bởi một hình rồng. Ở chuông có ghi niên hiệu và ngày tháng đúc chuông là “Gia Long thập tam niên nhị nguyệt nhị thập bát nhật”.

        Vị trí và cách di chuyển 

Cách di chuyển

Chùa Hương Trai hay Hương Trai Tự nằm tại trung tâm Dương Liễu, bên bờ ao ThiênCó rất nhiều cách di chuyển tới chùa Hương Trai với nhiều loại phương tiện khác nhau như xe máy, ô tô, xe bus. Chùa cho phép người tới hành lễ để xe máy tại sân của Chùa, với ô tô hoàn toàn có thể đỗ xe tại bờ ao. Khách thập phương có thể tới chùa Hương Trai bằng tuyến xe bus số 66 với điểm dừng đỗ trên đường đê cách Chùa 200m.

Giờ mở cửa và giá vé

Chùa mở cửa hoàn toàn miễn phí cho tất cả mọi người tới tế lễ, cầu bình an và tham quan. Tuy nhiên khi tới tham quan bạn hãy tìm tới các sư thầy để xin phép và được hướng dẫn cụ thể.

Nội quy và quy định 

Không được tùy ý làm ồn hoặc nói những lời bất kính đối với Phật, Thánh, cũng không được có thái độ thiếu cung kính. Khi vào chùa không được vào từ cửa Trung Quan (chính giữa) mà nên vào từ cửa Giả Quan (bên trái) và đi ra từ cửa Không Quan (bên phải). Khi bước đi không nên cắt ngang mặt người đang quỳ lạy. Hạn chế chỉ tay tùy tiện hoặc chạm trực tiếp vào tượng Phật. Khi dâng lễ không được đốt hương nén. Quay phim chụp ảnh cần có sự cho phép của các sư Thầy.

Khi đi vào chùa nên chọn trang phục nhã nhặn, sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, không mặc váy ngắn, quần cộc, áo xuyên thấu, khêu gợi. Ngoài ra, bạn cũng nên mặc trang phục gọn gàng, tiện lợi, tránh rườm rà, gây vướng víu.

Bệ đá hoa sen Chùa Hương trai

Chùa Hương Trai 

3.5 / 5 (2Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
Bình luận
    Danh mục
    Thống kê truy cập
    • Hôm nay: 53
    • Trong tuần: 126
    • Trong tháng: 2,811
    • Tổng số: 3,024
    • Đang online: 3