SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIẾM CỦA DI TÍCH
Dương Liễu là một làng nằm ở phía Tây Bắc huyện Hoài Đức (cũ) - vùng đất sớm được các lớp cư dân Việt cổ đến khai phá, lập làng. Cũng với Quế Dương và Mậu Hòa, Dương Liễu có tên Nôm là "Kẻ Sấu" nên người trong vùng thường gọi là 3 làng Sấu. Đây vốn là một làng cổ được hình thành cũng với quả trình dựng nước của dân tộc. Cũng tại đây, năm 1969, Viện Khảo cổ học đã khai quật di chỉ khảo cổ Quang Vĩnh thuộc xã Cát Quế (cũ) đã tìm thấy nhiều công cụ sản xuất, đồ trang sức, hộp sọ người thuộc giai đoạn văn hóa Gỗ Mun (hậu kỳ thời đại đồng thau) có niên đại cách ngày nay khoảng 3.000 năm.
Trong suốt quá trình sinh tồn, phát triển, các lớp cư dân người Việt đã khai phá vùng đất Dương Liễu thành những xóm làng trù phú. Do vị thế địa lý ngay bên bờ sông Đáy, thuận lợn cho việc giao thương, buôn bán nên từ rất sớm nhiều dòng họ đã đến đây tụ cư, lập nghiệp thành các xóm làng. Đặc biệt tử thể kỷ XV – XVII, địa giới hành chính của Dương Liễu chia thành 11 ngõ là: Quê Thượng, Quê Hạ, ngõ Trong, ngõ Giữa, ngõ Bứa, ngõ Đồng, ngõ Chàng Chợ, ngõ Chàng Giữa, ngõ Chàng Trũng, ngõ Gia Thượng, ngõ Gia Hạ với hơn 30 dòng họ. Một số dòng họ lớn như: họ Nguyễn, họ Phí, họ Phùng, họ Ngô, họ Đỗ, họ Lê... Họ canh tác, sản xuất, chăn tằm, dệt vải, tạo ra nhiều nghề thủ công nổi tiếng như: nghề dệt vải khổ hẹp phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống thường ngày của nhân dân trong vùng, nghề ép mía làm mật – một loại mật từng nổi tiếng của một vùng Quốc Oai, Thạch Thất, Đan Phượng và Hoài Đức (cũ), nghề đúc đồng, nghề rèn (dòng họ Nguyễn Huy), nghề mộc, nghề sơn (của dòng họ Nguyễn Bá), nghề làm bánh gio, bánh gai. Sau này họ phát triển nghề làm miền, chế biến tính bột, mạch nha, tách vỏ đỗ xanh, sản xuất bao bì...
Dương Liễu không chỉ là mảnh đất khéo tay trăm nghề, mà đây còn là vùng đất hiếu học từ xa xưa. Theo bia "Dương Liễu hội khoa bi kí”, dựng năm Khải Định thứ 2 (1917) thì làng có 3 người đỗ đại khoa (tiến sĩ). Người đỗ đầu tiên là Nguyễn Phi Kiến, đỗ Hội nguyên Tam giáp tiến sĩ, khoa thi Quý Hợi, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 (1623), sau ông được phong Hiến sát sứ, Ngự sử đài. Sau Nguyễn Phi Kiến là Phí Đăng Nhậm, đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ khoa Tân Sửu, niên hiệu Vĩnh Thọ 4 (1661), ông được phong Công bộc cấp sự trung. Chính Phí Đăng Nhậm là người đầu tiên đứng ra soạn thảo bản hương ước của làng năm 1666.
Người thứ 3 là Nguyễn Danh Dự, ông đỗ Hội nguyên tam giáp khoa Ất Sửu, niên hiệu Chính Hòa 6 (1685) năm ông 29 tuổi. Ông là người đầu tiên đứng ra vận động quan viên hương lão và nhân dân ba làng Quế Dương, Dương Liễu, Mậu Hỏa giao ước làm đình năm 1689. Ngoài các bậc đại khoa, Dương Liễu còn có 44 người đổ trung khoa (hương cống, cử nhân), 45 người đỗ sinh đồ, tú tài. Họ đã làm rạng danh cho quê hương Dương Liễu và làm vẻ vang cho nền khoa bảng nước nhà dưới thời quân chủ.
Trong quá trình sinh sống, người Dương Liễu sáng tạo, xây dựng những công trình văn hóa phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh, tiêu biểu là chùa Hương Trai còn lưu giữ bệ đá hoa sen nổi tiếng được dựng vào năm Đại Trị (1360). Ở Quế Dương có chùa Đại Bi dựng năm Long Khánh thứ nhất (1372), quán Dương Liễu tương truyền được dựng từ thời vua Trần Nhân Tông (1248), sau được dựng lại vào đời Khải Định (1916), đình Hàng Tổng nổi tiếng trong vùng do 3 làng Sấu xây dựng vào năm Chỉnh Hòa thứ 13 (1692), chùa Linh Châu (chùa Rừng), chùa Ái Linh (chùa Đồng) được dựng vào thế kỷ XVI, nhà thờ TS Phí Đăng Nhậm, nhà thờ TS Nguyễn Phi Kiến, nhà thờ TS Nguyễn Danh Dự và rất nhiều nhà thờ của các dòng họ khác. .....
Trong hệ thống di tích của xã Dương Liễu hiện nay, Điếm vốn là loại hình phố biển tồn tại từ lâu đời. Từ xưa, Thành hoảng được thờ ở đình Hàng Tổng, mỗi ngõ có một Điếm, ngoài thờ thần linh còn là nơi hội họp của ngõ, nơi để các đồ chữa cháy. Hàng năm, gần đến tết Nguyên Đán, các ngõ tổ chức một ngày đắp đường, khơi cống rãnh, tu bổ lũy tre, sửa sang cổng làng. Thờ thần linh Bản thổ tại Điếm Hạ Thôn Hoa vốn được bà con trong thôn duy trì từ bao đời nay chính là nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người Việt nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người. Đây chính là đặc trưng trong văn hóa ứng xử của làng quê Việt Nam, một biểu hiện của tín ngưỡng "đa thần" với ước muốn cầu mong mọi sự bình an, yên ổn, mưa gió thuận hòa, vạn vật sinh sôi, phát triển.
SINH HOẠT VĂN HOÁ TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐÈN DI TÍCH
Với đặc điểm là một ngôi Điếm thờ thần linh Bản Thổ nên hàng năm, các hoạt động tín ngưỡng tâm linh chỉ tổ chức trong phạm vi thôn, xóm. Hàng năm, dân thôn Quê tổ chức lễ hội vào ngày mùng 6 tháng Giêng (âm lịch) để cầu mong cho thôn xóm một năm làm ăn thuận lợi, mọi nhà yên vui. Lễ vật được dân làng dâng cũng gồm thịt gà, xôi trắng, thanh bông, hoa quả, trầu rượu, tiền vàng được nhân dân chuẩn bị từ hôm trước để sáng sớm hôm sau mang ra Điếm làm lễ tế thần.
Theo lệ, những người tham gia đều phải đóng góp theo suất đỉnh. Tất cả các thành viên trong làng từ 18 tuổi trở lên đều được tham gia đầy đủ. Vì di tích thờ thần linh Bản thổ nên vào ngày hội làng chỉ tổ chức dâng hương, không tổ chức các nghỉ thức tế lễ và rước. Mọi hoạt động tế lễ, rước được tổ chức ở đình làng vào hôm sau (tức ngày mùng 7 tháng Giêng).
KHẢO TẢ DI TÍCH
Giới thiệu tổng thể di tích
Điếm Hạ Thôn Hoa nằm trên khu đất có khuôn viên khá xinh xắn, gọn gàng trong khu vực cư trú của làng. Phía trước là ngõ đi, đối diện có vườn nhỏ với các loại cây ăn quả tạo cảnh quan cho di tích. Nhân dân địa phương cho biết vị trí xây dựng Điếm trước kia là đất đình của làng Khả Liễu, hai Ngõ Quê Thượng và Quê Hạ vốn là đất của đình nằm kẹp giữa làng Dương Liễu và Quế Dương. Về sau dân làng này bỏ đi lập nghiệp ở Hà Nam, trên khu đất đó, dân làng xây dựng ngôi Điếm Hạ để vừa làm nơi thờ cúng thần linh, vừa là nơi hội họp của ngõ xóm. Hồi cố của các bậc cao niên cho biết, Điếm Hạ Thôn Hoa được xây dựng từ rất lâu đời, quy mô hiện nay không có gì thay đổi. Vào năm Bảo Đại thứ 10 (1935), Điếm được trùng tu lớn. Dấu vết của lần trùng tu này được lưu dấu qua dòng chữ còn ghi trên thượng lương tòa tiền tế (nay đã bị mớ một phần). Trước đây Điếm có sàn làm bằng gỗ khá chắc chắn, sau này, săn gỗ bị hỏng, nhân dân tu sửa lại, phá bỏ sản gỗ và lát nền gạch như hiện nay. Tổng thể mặt bằng các công trình kiến trúc hiện nay được kết cấu dạng chữ "đình" gồm tiền tế và hậu cung.
Mô tả kiến trúc
*Tiền tế
Tòa tiền tế nằm ngay sát con ngõ nhỏ của thôn Quê, qua bậc tam cấp dẫn vào tòa tiến tế với 5 gian, xây gạch, kiểu tường hồi bít đốc tay ngai, mái lợp ngói ri, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Phía trước mở hệ thống cửa bức bản thượng song hạ bản, nền lát gạch Bát Tràng.
Bộ khung gồm 6 bộ vì gỗ kết cấu theo hai dạng thức khác nhau. Hai vi hồi kết cấu kiểu Thượng chồng rường giá chiêng, hạ kẻ truyền. Trên mỗi bộ vì gồm 3 con rường được xếp chống khít lên nhau qua những đấu vuông thót đáy, mỏng, thấp. Riêng con rường dưới cùng được cắt lửng tạo giành “giá chiêng”, còn 4 bộ vì gian giữa kết cấu kiểu thượng giá chiêng, hạ kẻ ngồi, bẩy hiên trên 3 hàng chân cột.
* Hậu cung
Hậu cung Điếm gồm 1 gian ở phía sau tạo thành kiểu chữ “ đỉnh” Bộ khung gồm 2 bộ vì bằng gỗ kết cấu kiểu kèo cầu quá giang trốn cột, hai đầu của quá giang gác trực tiếp lên tường bao. Không có hoa văn trên kiến trúc.
*Bài trí đồ thờ trong di tích
Tại hậu cung: Sát tường hậu xây bục cao làm nơi đặt các đồ thờ tự như: long ngai - bài vị, lọ hoa, y môn, ỷ thờ, đài nước, chân đèn, lư hương, mâm bồng, bát hương.
Tại tòa tiền tế, phần gian giữa tiếp giáp với hậu cung treo hoành phi, bên dưới đặt 1 hương án, trên đặt lọ hoa, hạc thờ. Lùi ra phía ngoài đặt 1 hương án bằng gỗ, trên đạt bát hương, lọ hoa, bên dưới đặt lộc bình. Phía trên treo hoành phi, hai bên cột treo câu đối.
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA HỌC VÀ THẨM MỸ CỦA DI TÍCH
Về mặt văn hóa khoa học và lịch sử: Điếm Hạ Thôn Hoa là di tích được xây dựng lên nhằm đáp đứng nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng dân cư địa phương. Tuy chỉ là một kiến trúc nhỏ của một ngõ xóm, nhưng ngôi Điếm vẫn là sinh hoạt văn hoá tâm linh của cộng đồng cư dân, nơi bảo lưu, gìn giữ những giá trị văn hoá truyền thống của địa phương và cũng là nơi giáo dục hướng con người tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Từ bao đời nay, nhân dân thôn Quê đã trân trọng, gìn giữ, trùng tu, tôn tạo ngôi Điếm của thân mình với ước nguyện cầu mong thần linh hãy che chở, phù trì cho nhân dân được thái bình, an lạc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Về giá trị kiến trúc nghệ thuật: Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, đến ngày nay, di tích đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng về cơ bản vẫn bảo lưu được phong cách của kiến trúc truyền thống với các bộ vì chồng rường cùng hệ thống di vật được nhân dân gìn giữ cẩn trọng. Tuy không có qui mô bề thế như chùa Hương Trai, đình Hàng Tổng, quán Dương Liễu, chùa Rừng, chùa Đồng, nhưng chính sự hiện hữu của ngôi Điếm nhỏ đã truyền tải nét đẹp dung dị, chứa đựng những giá trị lịch sử - văn hóa nhất định, góp phần làm phong phú thêm cho các loại hình di tích tôn giáo, tín ngưỡng tại địa phương, tạo nên sự khác biệt cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa và lịch sử Dương Liễu.
Sơ đồ phân bố hiện vật

