Logo Footer

LÝ LỊCH DI TÍCH CHÙA ĐỒNG

I. TÊN GỌI DI TÍCH

1. Tên gọi di tích được thống nhất sử dụng trong hồ sơ khoa học di tích:

Dương Liễu là một vùng đất cổ kính bên dòng sông Đáy, nổi danh với những làng nghề truyền thống, chợ Sấu - chợ làng trong lòng thành phố Hà Nội và những công trình văn hóa tín ngưỡng tâm linh có giá trị như chùa Hương Trai, nhà thờ Tiến sĩ Phí Đăng Nhậm... Người Dương Liễu gắn bó, đoàn kết thông qua các hoạt động sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tiêu biểu như ngày hội truyền thống ngày 12 tháng 3 âm lịch thu hút đông đảo nhân dân dự lễ rước kiệu, nghiềm quân, múa cờ và tế lễ để tri ân vị tướng quân Lý Phục Man có công lao phò tá vua nhà Lý. Và những ngày lễ gắn với tín ngưỡng tôn giáo thờ Phật tại 3 ngôi chùa làng nổi tiếng trong vùng là chùa Hương Trai, chùa Bãi (chùa Rừng) và chùa Đồng.

Hồ sơ khoa học này đề cập đến một trong ba ngôi chùa trên địa bàn Dương Liễu là chùa Đồng. Sở dĩ có tên gọi này vì xưa kia, ngôi chùa tọa lạc tại vị trí rìa làng, xung quanh là đồng ruộng thuộc vùng đất làng Khả Liễu cổ xưa. Còn cư dân đang sinh sống xung quanh chùa Đồng hiện nay là do di chuyển dân ở vùng bãi ven sông Đáy lên năm 1976 khi thực hiện chính sách giải phóng lòng sông của nhà nước, lúc đó mới quy hoạch là khu dân cư lấy tên là đội 11, nay là thôn Chùa Đồng.

2. Các tên gọi khác của di tích (nếu có) và nguồn gốc tên gọi đó:

 II - ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH

1. Địa điểm di tích:

a. Trước đây:

Dương Liễu nằm ở phía Tây Bắc huyện Hoài Đức cũ - vùng đất sớm được các lớp cư dân Việt cổ đến khai phá, lập làng. Cùng với Quế Dương và Mậu Hòa, Dương Liễu có tên Nôm là “Kẻ Sấu" nên người trong vùng thường gọi là 3 làng Sấu. Đây vốn là một làng cổ được hình thành cùng với quá trình dựng nước của dân tộc. Cũng tại đây, năm 1969, Viện Khảo cổ học đã khai quật di chỉ khảo cổ Vĩnh Quang thuộc xã Cát Quế đã tìm thấy nhiều công cụ sản xuất, đồ trang sức, hộp sọ người thuộc giai đoạn văn hóa Gò Mun (hậu kỳ thời đại đồng thau) có niên đại cách ngày nay trên 3.000 năm.

Trong suốt quá trình sinh tồn, phát triển, các lớp cư dân người Việt đã khai phá vùng đất Dương Liễu thành những xóm làng trú phú. Do vị thế địa lý ngay bên bờ sông Đáy, thuận lợi cho việc giao thương, buôn bán nên từ rất sớm nhiều dòng họ đã đến đây tụ cư, lập nghiệp thành các xóm làng. Đặc biệt từ thế kỷ XV-XVII, địa giới hành chính của Dương Liễu chia thành 11 ngõ là: Quê Thượng, Quê Hạ, Ngõ Trong, Ngõ Giữa, Ngõ Bứa, Ngõ Đồng, Ngõ Chàng Chợ, ngõ Chàng Giữa, ngõ Chàng Trũng, ngõ Gia Thượng, ngõ Gia Hạ với hơn 30 dòng họ. Một số dòng họ lớn như: họ Nguyễn, họ Phí, họ Phùng, họ Ngô, họ Đỗ,... Với các ngành nghề, nhân dân canh tác, sản xuất, chănn tằm, dệt vải, tạo ra nhiều nghề thủ công nổi tiếng như: nghề dệt vài khổ hẹp phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống thường ngày của nhân dân trong vùng, nghề ép mía làm mật - một loại mặt từng nổi tiếng của một vùng Quốc Oai, Thạch Thất, Đan Phượng và Hoài Đức, nghề đúc đồng, nghề rèn (dòng họ Nguyễn Huy), nghề mộc, nghề sơn tượng (của dòng họ Nguyễn Bá), nghề làm bánh gio, bánh gai. Sau này họ phát triển nghề làm miến, chế biến tinh bột, mạch nha, tách vỏ đỗ xanh, sản xuất bao bì, bánh kẹo....

Theo sách Các trấn, tổng xã danh bị lãm và Bắc Thành dư địa chỉ ghi di tích thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Đồng Khánh dư địa chí ghi thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Danh mục cuối thế kỷ XIX ghi thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Nội. Tài liệu năm 1893 ghi thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội. Tài liệu năm 1901 thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội, Làng xã Bắc Kỳ, tài liệu năm 1932 ghi thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Nội. Năm 1965 thuộc tỉnh Hà Tây, năm 1975 thuộc tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1991 thuộc tỉnh Hà Tây. Ngày 29/5/2008, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội. Ngày 1/8/2008, tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội, theo đó, xã Dương Liễu thuộc huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

b. Hiện nay:

Chùa Đồng thuộc thôn Chùa Đồng, xã Dương Hòa, thành phố Hà Nội. Về địa giới hành chính: Phía Bắc giáp Minh Khai, Phía Nam giáp Cát Quế; Phía Đông giáp Đức Giang, Đức Thượng, Phía Tây giáp Liên Hiệp và Hiệp Thuận (Phúc Thọ).

2. Đường đi đến di tích

Chùa Đồng, thôn Chùa Đồng, xã Dương Hòa nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 25 km về phía Tây. Để đến được di tích có thể đi bằng nhiều tuyến đường khác nhau, nhưng thuận tiện hơn cả là đi từ trung tâm Hồ Hoàn Kiếm theo đường Tràng Thi - Kim Mã - Nguyễn Chí Thanh -Trần Duy Hưng, thẳng Đại lộ Thăng Long đến đẻ Song Phương, rẽ phải theo đường để khoảng 7km là đến UBND xã Dương Liễu cũ. Di tích nằm cách UBND xã cũ khoảng 500 m.

Đường đi phù hợp với các phương tiện đường bộ.

III. PHÂN LOẠI DI TÍCH:

Chùa Đồng là một công trình kiến trúc tôn giáo thờ Phật theo phái Đại Thừa. Căn cứ các tiêu chí xếp loại di tích tại điều 28 Luật Di sản văn hóa và điều 13 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa, xét theo giá trị nổi bật, di tích chùa Đồng xếp vào loại hình Di tích lịch sử.

IV. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH

Dương Liễu có vị trí địa lý rất thuận lợi cho sự giao lưu và phát triển kinh tế - xã hội, thuận lợi cho việc phát triển các loại hình dịch vụ - thương mại, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, là địa bản có lợi thế về thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa. Dương Liễu là Làng nghề chế biến nông sản truyền thống từ lâu đời và có các dịch vụ thương mại phát triển đã tạo cho Dương Liễu có một lợi thế về kinh tế, xã hội và văn hoá.

Dương Liễu không chỉ là mảnh đất khéo tay trăm nghề, mà đây còn là vùng đất hiếu học từ xa xưa. Theo bia "Dương Liễu hương hội khoa bi kí", dựng năm Khải Định thứ 2 (1917) thì làng có 3 người đỗ đại khoa (tiến sĩ). Người đỗ đầu tiên là Nguyễn Phi Kiến, đỗ Hội nguyên Tam giáp tiến sĩ, khoa thi Quý Hợi, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 (1623), sau ông được phong Hiến sát sứ, Ngự sử đài. Sau Nguyễn Phi Kiến là Phí Đăng Nhậm, đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ khoa Tân Sửu, niên hiệu Vĩnh Thọ 4 (1661), ông được phong Công bộc cấp sự trung. Chính Phí Đăng Nhậm là người đầu tiên đứng ra soạn thảo bản hương ước của làng năm 1666. Người thứ 3 là Nguyễn Danh Dự, ông đỗ Hội nguyên tam giáp khoa Ất Sửu, niên hiệu Chính Hòa 6 (1685) năm 29 tuổi. Ông là người đầu tiên đứng ra vận động quan viên hương lão và nhân dân ba xã Quế Dương, Dương Liễu, Mậu Hòa giao ước làm đình năm 1689. Ngoài các bậc đại khoa, Dương Liễu còn có 44 người đỗ trung khoa (hương cống, cử nhân), 45 người đỗ sinh đồ, tú tài. Họ đã làm rạng danh cho quê hương Dương Liễu và làm vẻ vang cho nền khoa bảng nước nhà dưới thời quân chủ.

Trong quá trình sinh sống, người Dương Liễu sáng tạo, xây dựng những công trình văn hóa phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh, tiêu biểu là chùa Hương Trai còn lưu giữ bệ đá hoa sen nổi tiếng được dựng vào năm Đại Trị (1360). Ở Quế Dương có chùa Đại Bi dựng năm Long Khánh thứ nhất (1372), quán Dương Liễu tương truyền được dựng từ thời vua Trần Thái Tông (1248), sau được dựng lại vào đời Khải Định (1916), đình Hàng Tổng nổi tiếng trong vùng do 3 làng Sấu xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 13 (1692), tiếp sau là chùa Linh Châu (chùa Bãi), chùa Ái Linh (chùa Đồng) được dựng vào thế kỷ XVII (Theo Lịch sử Cách mạng của đảng bộ và nhân dân xã Dương Liễu 1930 - 2010) cùng hệ thống các nhà thờ họ, như nhà thờ Tiến sỹ Phí Đăng Nhậm, thà thờ Tiến sỹ Nguyễn Phi Kiến, nhà thờ Tiến sỹ Nguyễn Danh Dự và rất nhiều nhà thờ của các dòng họ khác…

Tương truyền, cùng với quá trình xây dựng và phát triển văn hóa làng. Chùa Đồng xưa kia được hình thành trên vùng đất làng Khả Liễu cổ. Từ trước thế kỷ XVII, các thiết chế văn hóa làng được hình thành và phát triển, nhân dân làng Khả Liễu đã xây dựng ngôi đình làng Khả Liễu thờ thành hoàng làng (nay là Điếm hạ thôn Hoa, thuộc thôn Quê đã được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hoá cấp Thành phố tháng 5 năm 2019) và chùa Đồng (Ái Linh tự) để thờ Phật.

Chùa Đồng là một ngôi chùa làng, được nhân dân xây dựng từ lâu đời. Hiện nay chưa có tài liệu ghi chép về niên đại, thời gian xây dựng ngôi chùa. Theo lời kể của nhân dân địa phương, nguyên xưa ngôi chùa bề thế, quy mô to lớn với các hạng mục kiến trúc cổ truyền thống như chùa Hương Trai. Trải qua thời gian, hình dáng kiến trúc đã có nhiều thay đổi. Về vật thể, quả chương đồng để “Ái Linh tự chung"-"Hoàng Thành Thái vạn vạn niên chỉ thập cứu tuế Đình Mùi" cho thấy quả chuông chùa Ái Linh được đúc năm Định Mùi năm trị vì thứ 19 của vua Thành Thái (1907). Khánh đồng đề "Ái Linh tự khánh" - niên hiệu Bảo Đại cho thấy nhân dân thiện tín Dương Liễu cùng nhau đúc khánh mới cho các ngôi chùa làng, chùa Hương Trai đúc xong năm đó, chùa Ái Linh sau 9 ngày hoàn thành. Hệ thống tượng chùa mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Những vật thể nêu trên góp phần xác lập giá trị lịch sử của ngôi chùa, đồng thời khẳng định yếu tố tâm linh liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo Phật giáo của ngôi chùa Đồng.

Trải qua thời gian, Phật giáo là một tôn giáo lớn, không chỉ có tầm ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Phật giáo trên đất nước ta có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Do những triết lý của Phật giáo phù hợp với phong tục, tín ngưỡng của nhân dân nên theo thời gian đã đi vào tiềm thức của mỗi người, đặc biệt tại những ngôi chùa làng như chùa Đồng thì Phật giáo trở nên gần gũi, bình dị, phản ảnh chân thực thế giới của những nhân vật có đức hạnh, dẫn dắt con người đi đến chân thiện-mỹ.

Như các ngôi chùa khác tại Dương Liễu, chùa Đồng thờ Phật và chư vị Bồ tát theo phái đại thừa. Những nhân vật lịch sử của Phật giáo trên phật điện chùa Đồng gồm: Tam Thế Phật, A Di Đà và nhị vị Bồ tát, Di Lặc, Tuyết Sơn, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Thích Ca Cửu Long. Các ban thờ tại thượng điện còn có các nhân vật như Đức Ông, Thánh Tăng: Long Thần, Thổ Địa, Địa Tạng Bồ Tát, Quan Âm Thiên thủ thiên nhãn và Quan Âm Tống Tử, Hộ pháp Khuyến Thiện và Hộ pháp Trùng Ác. Họ là những nhân vật được nhân dân kính ngưỡng, gửi gắm những ước vọng, có thể ban phép màu làm giảm đi những phiền muộn, lo âu, mang lại may mắn và hạnh phúc cho con người.

Đến năm 1976, ngôi chùa Đồng tháo dỡ do bị đổ, tất cả các hạng mục kiến trúc không còn. Năm 1995, chỉnh quyền và nhân dân đã hưng công, phục dựng lại ngôi chùa như hiện nay để tiếp tục thờ Phật, chư vị Bồ Tát và duy trì các hoạt động sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tâm linh cho nhân dân. Năm 1998, xây dựng thêm hạng mục nhà khách, kiêm nhà soạn lễ để phục vụ nhân dân đến chùa. Cảnh chùa và hệ thống hạ tầng kỹ thuật được chú trọng đầu tư, sân được lát nền, tường bao xây dựng theo khuân viên đất chùa.

* Một số sự kiện khác:

Dương Liễu không chỉ là địa danh có truyền thống lịch sử lâu đời với sự hiện diện của các công trình văn hóa, tín ngưỡng tâm linh phục vụ nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh cho nhân dân, những nhà thờ họ có truyền thống hiếu học, khoa bảng. Người dân Dương Liều còn tiếp tục hăng say, giỏi nghề, chế tạo, sản xuất ra nhiều sản phẩm nổi tiếng mang tính địa phương, góp phần làm giàu cho quê hương đất nước. Có được những thành công, thành tựu như hiện nay, không thể không kể đến những công lao đóng góp của cả hệ thống chính trị và nhân dân địa phương qua các thời kỳ lịch sử, cách mạng kháng chiến và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại địa phương. Theo số liệu ghi chép tại Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Dương Liễu cũ, trong hai cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc, trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, địa phương có nhiều liệt sĩ (235 người), thương hình (70 người), bệnh bình (29 người) và bà mẹ Việt Nam anh hùng (25 người), () người hướng chế độ chất độc màu da cam. Thời kỳ đổi mới cũng có nhiều hộ gia đình duy và và phát triển các làng nghề truyền thống của địa phương.

* Đánh giá:

Chùa Đồng được xây dựng từ lâu đời để thờ Phật theo phái Đại thừa. Trải qua thời gian tồn tại đến này, ngôi chùa tuy không còn giữ được quy mô, kiểu dáng kiến trúc như ngày khởi dựng nhưng vẫn bảo lưu được hệ thống đồ thờ có giá trị, như tượng thờ phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, chuông đồng, khánh đồng niên đại thời Nguyễn, góp phần mình chứng giá trị của di tích. Trải qua thời gian tồn tại đến nay, ngôi chùa Đồng đã trở thành công trình văn hoá, phục vụ nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng cho nhân dân. Nhân dân đến chùa lễ Phật, nguyện đem công đức dựng xây, tôn tạo cảnh chùa ngày thêm khang trang, xứng tầm.

Việc lập hồ sơ khoa học di tích, nhận diện và đánh giá giá trị di tích, định hướng công tác tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích là cần thiết, góp phần gìn giữ, bảo vệ và phát huy giá trị di tích được tốt hơn.

V. SINH HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN:

Là ngôi chùa thờ Phật theo phái Đại thừa thuần túy, chùa Đồng cũng duy trì sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tâm linh thành kính, trang nghiêm như các ngôi chùa Hương Trai, chùa Rừng (chùa Bãi) trên địa bàn Dương Liễu. Cụ thể: vào những ngày tuần tiết, những khóa lễ theo quy định của nhà Phật như lễ Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng), lễ vào hè (ngày mùng 1 tháng 4), lễ Phật Đản (ngày 15 tháng 4), lễ ra hè (ngày mùng 1 tháng 7), lễ Vu Lan (rằm tháng 7). Những ngày này, tại chùa Đồng vẫn duy trì, đảm bảo các sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, phục vụ và đáp ứng nhu cầu tôn giáo cho nhân dân.

Vật phẩm dâng lên cúng Phật là những nông sản thanh khiết do người dân cần cù làm ra, với tấm lòng thành kính và cái tâm trong sáng dâng lên tòa tam bảo, như: hoa, quả, bánh kẹo. Gần đây, ông từ (người trông coi di tích) và nhân dân còn sửa soạn những mâm cỗ chay được chế biến công phu, tỉ mỉ, sắp đặt, bày biện đẹp mắt tại các ban thờ chính trong chùa.

Vào các ngày sóc vọng và các dịp lễ trọng Đạo, người dân và Phật tử địa phương đến chùa Đồng lễ Phật và chư vị Bồ tát. Họ bước vào cửa Thiền sau khi đã gạt đi những khổ não và vất và đời thường, lắng tâm nghe lời kinh, tiếng chuông, tiếng mõ và ngước lên nhìn đức Phật nở nụ cười từ bi mà tìm đến với sáng lăng trí tuệ và thanh nhẹ cõi lòng.

Tại Dương Liễu, 3 ngôi chùa Hương Trai, chùa Bãi và chùa Đồng còn có mối quan hệ mật thiết từ xưa đến nay. Những ngày lễ lớn của Phật giáo như lễ Phật Đản, lễ ra - vào hè, ngày hội truyền thống của xã 12 tháng 3 âm lịch hàng năm, chính quyền và nhân dân địa phương cùng với các sư vãi của 3 ngôi chùa lại trang hoảng cảnh chùa, sắm sửa đồ lễ, thắp hương, tụng kinh niệm Phật. Việc duy trì các khóa lễ tụng kinh được thực hiện trước tiên tại chùa Hương Trai, sau đó là chùa Bãi và kết thúc là chùa Đồng. Những sinh hoạt văn hóa tâm linh liên quan tại 3 ngôi chùa được duy trì thực hiện từ trước đến nay và lưu giữ mãi về sau.

VI. KHẢO TẢ DI TÍCH

1. Giới thiệu tổng thể:

Theo các cụ cao niên trong làng, trước đây chùa Đồng được xây dựng trên một gò đất cao, xunh quanh là đồng ruộng. Quy mô của ngôi chùa không to lớn, bề thế, như chùa Hương Trai (ngôi chùa cổ kính tại xã Dương Liễu). Tuy nhiên, năm 1974 trong quá trình lấy đất đắp đê Tả Đáy chùa sập đổ, nên nhân dân đã tháo dỡ năm 1976, các hạng mục kiến trúc chính, nhiều đồ thờ và hiện vật của di tích không còn, đặc biệt là tấm bia đá hiện chưa tìm được dầu vết, chỉ còn lại chuông đồng và khánh đồng. Những năm 1976, tại nơi dấu tích của chùa, đội sản xuất có dựng lán nhỏ để làm kho. Đến năm 1995 chính quyền và nhân dân trong xã đã thành tâm xây dựng lại ngôi chùa và hoàn thành xây dựng nhà khách năm 1998 duy trì đến nay.

Hiện nay, Chùa Đồng tọa lạc tại vị trí giữa thôn Chùa Đồng. Di tích nhìn theo hướng Đông Nam. Trước chùa có cây đa cổ thụ, bao quanh là đường bê tông. Chùa gồm các hạng mục: tiền đường ngoài, tiền đường, thượng điện, nhà khách, ban thổ thần.

2. Mô tả chi tiết.

a. Tiền đường ngoài:

Tiền đường ngoài là hạng mục kiến trúc phía trước tòa tam bảo, kết cấu kiến trúc chính của chùa "Tiền chữ Nhất, hậu chữ Đình” thường gắn với việc thờ "Tiền Thánh hậu Phật". Còn đối với các ngôi chùa không thờ Thánh, thì công năng sử dụng của tòa tiền đường ngoài chỉ làm tăng thêm không gian cho tòa tiền đường, vì tòa tiền đường là nơi bài trí một số ban thờ và các sư trụ trì tụng kinh niệm Phật, thực hiện các nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng còn tiền đường ngoài là nơi tụng niệm của các vãi hay các tín đồ. Đối với chùa Đồng hiện nay, hạng mục kiến trúc này là nơi bài trí tượng Địa tạng Bồ Tát, dẫn dắt các vong linh về miền cực lạc.

Tiền đường ngoài gồm 4 gian 1 dĩ, 2 tường hồi bít đốc, phía trước và sau để thoáng. Mái gồm 2 mái chảy, bờ nóc để trơn, cuối bờ chảy tạo nhị cấp. Mái lợp ngói Tây.

Chịu lực cho công trình là 2 hàng chân cột kiểu tứ trụ xây bằng gạch. Trên đầu cột là bộ vì mãi bằng gỗ, liên kết giữa các cấu kiện kiểu vì kèo quá giang. Các cấu kiện gỗ được bào trơn đông bén, thiên về độ bền chắc. Phần không gian dưới liên kết của 2 kèo tại nóc mái có bưng 1 ván nhỏ dạng con dơi tựa cho chữ "Phúc" để cầu may mắn đến với chúng sinh.

Tại tiền đường ngoài chùa Đồng, bên cạnh pho Địa tạng Bồ Tát và một số đồ thờ như bát hương, chân nến, mâm bồng, ống hương còn bải trí quả chuông đồng và khánh đồng.

b. Tiền đường:

Qua tiền đường ngoài là một khoảng sân có bài trí một cây hương bằng đá kiểu tứ trụ, phía sau dẫn đến tòa tiền đường. Hạng mục này gồm 3 gian, kiểu tường hồi bít đốc, 2 mái chảy, bờ nóc để trơn, 2 đầu bờ nóc là đấu đỉnh, cuối bờ dải tạo nhị cấp nối với tứ trụ có định hình nụ sen, ô lồng đèn và thân được soi gờ không đắp hoa văn trang trí.

Tương ứng với các gian, phía trước tạo căn bản lề, các bộ và liên kết kiểu vì kéo quá giang gối tường. Các cấu kiện gỗ được bào trơn đồng bên, thiên về độ bền chắc. Phần không gian dưới liên kết của 2 kèo tại nóc mái có bưng 1 ván nhỏ dạng con dơi tựa cho chữ "Phúc" để cầu may mắn đến với chúng sinh.

Nội thất tòa tiền đường gồm gian giữa bài trí hoành phi, câu đối, ban thờ xây gạch với các đồ thờ như: bát hương, đài nước, chân nến, rủa hạc, tư hương... Hai gian bên là ban thờ tượng Hộ pháp Trùng Ác và Hộ pháp Khuyến Thiện.

c. Thượng điện:

Nối phía sau tiền đường là 3 gian thượng điện, kết cấu kiểu tường hồi bít đốc, phía sau bưng tường tạo thành không gian kín đáo, thiêng liêng bài trí các pho tượng, hiện thân của các nhân vật lịch sử Phật giáo.

Cũng như tiền đường, bộ vì mái thượng điện được làm kiểu vì kèo quá giang gối tường. Các cấu kiện gỗ được bào trơn đồng bên, thiên về độ bền chắc. Phần không gian dưới liên kết của 2 kèo tại nóc mái có bưng 1 ván nhỏ dạng con dơi tựa cho chữ "Phúc" để cầu may mắn đến với chúng sinh.

Thượng điện là nơi thiêng liêng nhất của di tích, sắp xếp nhiều ban thờ, trên Phật điện là hệ thống tượng: Tam thế, A Di Đà và nhị vị Bồ tát, tượng Di lặc, Tuyết Sơn, tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu và tượng Thích Ca Cửu Long. Các ban thờ 2 bên Phật điện gồm ban Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhân, Quan Âm Tống Tử, ban Thổ Địa, Long Thần, ban thờ Đức Ông, Thánh Tăng, ban thờ tượng Địa tạng Bồ tát.

d. Nhà khách:

Nhà khách - nhà soạn lễ được xây dựng năm 1998. So với hướng Tam bảo thì nhà khách nằm dọc, hướng nhìn về tam bảo, bao gồm 4 gian, kiểu tường hồi bít đốc, 2 mái chảy lợp ngói ta, phía trước bỏ trống, các bộ vì liên kết tại các gian đứng trên 2 hàng chân cột bằng gạch, liên kết thống nhất kiểu vì kèo quá giang gối tường.

e. Ban thổ thần:

Được xây dựng tại góc sân bên trái chùa, phía trước các hạng mục chùa chính. Quy mô ban thổ thần khá khiêm tốn, kiểu 4 mái đao công, 3 mặt xây tường kín, phía trước tạo tam cấp và bưng 1 cánh cửa gỗ, 2 bên hồi ghi câu đối bằng chữ Hán, bên trong xây bệ thờ để sắp xếp một số hiện vật thờ thổ thần.

VII. CÁC DI VẬT TRONG DI TÍCH

Chùa Đồng còn bảo lưu được chuông đồng, khánh đồng có nghệ thuật thời Nguyễn.... Các hiện vật được bài trí, sắp đặt tại các ban thờ tại tiền đường ngoài, tiền đường và thượng điện, trong đó hạng mục thượng điện là nơi tập trung nhiều và dày đặc các pho tượng Phật theo phái Đại thừa truyền thống, cụ thể như sau:

1. Đánh giá

- Về số lượng, chủng loại: Hiện vật tại chùa Đồng có số lượng không nhiều nhưng khá đa dạng về chủng loại gồm đồ gỗ, gốm sứ, đồ đồng trong đó chất liệu gỗ chiếm tỉ lệ nhiều hơn cả.

 - Về quy cách sắp đặt: Với lối kiến trúc ngôi chùa chính trên mặt bằng "Tiền chữ nhất hậu chữ đinh", trong đó hạng mục trước tam bảo có bài trí hệ thống đồ thờ, tượng Địa Tạng Bồ tát và cùng ban thờ tương tự như vậy hiện đặt tại thượng điện là chưa phù hợp. Do diện tích khiêm tốn, quy mô hạng mục tiền đường chỉ bài trí được 1 ban thờ chính tại gian giữa và 2 ban đức ông Khuyến Thiện - Trừng Ác cần thiết điều chỉnh để đưa ban thì tượng Đức Ông và Thánh Tăng từ thượng điện ra hạng mục tiền đường bởi vì theo quy định người đến lễ Phật, trước tiên phải đến ban Đức Ông để thắp nén hương xin phép. Do vậy việc đặt ban Đức Ông như hiện nay tại chùa Đồng là chưa phù hợp. Tại thượng điện, tập trung phần lớn hệ thống tượng trên Phật điện và 2 gian bên được đặt một cách chật trội, đặc biệt một số ban thờ sắp xếp chưa khoa học, cần được điều chỉnh cho phù hợp.

- Về những di vật tiêu biểu: chùa Đồng bảo lưu được một số hiện vật tiêu biểu như chuông đồng, khánh đồng phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, cây hương đá tuy bị mờ chữ viết và hoa văn trang trí, song các hiện vật góp phần mình chứng giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật của di tích.

Nhìn chung các hiện vật tại di tích có số lượng không nhiều, được bài trí với mật độ dày tại thượng điện. Các hiện vật góp phần khẳng định giá trị của di tích, tuy nhiên cần lưu ý về vị trí sắp đặt, bài trí và công tác bảo quản, bảo vệ hiện vật của di tích.

VIII. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ, KHOA HỌC, THẨM MỸ CỦA DI TÍCH:

Chùa Đồng là ngôi chùa làng rất đỗi thân quen, gần gũi với đời sống nhân dân Dương Liễu. Từ khi ngôi chùa được xây dựng lên, các hoạt động tín ngưỡng được duy trì và Phật giáo cũng đi vào tiềm thức của nhân dân nơi đây một cách rộng rãi rõ nét hơn. Đến với ngôi chùa, đến với Phật giáo là đến với một cõi tâm linh, một thế giới an bình, con người bỗng tự gác lại những tham sân si để hướng tới cái chân thiện mỹ. Trải qua thời gian, dù rằng quy mô, diện mạo ngôi chùa có những thay đổi, hệ thống đồ thờ, hiện vật được trang hoàng song cái tinh thần từ bi, khuyến thiện trừng ác của đạo Phật vẫn được duy trì và trở nên gần gũi với nhân dân. Mỗi ngày rằm, mùng một hàng tháng, nhân dân địa phương và du khách thập phương lại thành tâm, sửa soạn nén nhang, hoa quả lòng thành đến chùa kính lễ, gửi gắm những ước mong Phật, Bồ tát linh thiêng, nghe thấu những nỗi phiền muộn của con người mà dang tay cứu giúp, độ trì cho nhân dân được an yên, vững vàng trong đời sống thường ngày. Từ sự tồn tại của ngôi chùa Đồng, từ những sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh di dần vào cuộc sống của nhân dân, ngôi chùa đã khẳng định được giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ cụ thể như sau.

- Về giá trị lịch sử: Hiện diện trên mảnh đất Dương Liễu có bề đây truyền thống lịch sử là những công trình văn hóa phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh của nhân dân, tiêu biểu như: chùa Hương Trai còn lưu giữ bộ đã hoa sen nổi tiếng được dựng vào năm Đại Trị (1360); đình Hàng Tổng do 3 làng Sấu xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 13 (1692), quân Dương Liễu được dựng lại vào đời Khải Định (1916), chúa Linh Châu (chúa Bài), cũng một số nhà thờ họ như nhà thờ Tiến sỹ Phí Đăng Nhậm, nhà thờ Tiến sỹ Nguyễn Phủ Kiến, nhà thờ Tiến sỹ Nguyễn Danh Dự và rất nhiều nhà thờ của các dòng họ khác. v.v... Bên cạnh chủa Hương Trai, chùa Linh Châu thờ Phật theo phái Đại thừa thì chùa Đồng là một trong 3 ngôi chùa tại Dương Liễu có thời gian tồn tại lâu đời và mang trên mình giá trị lịch sử theo năm tháng. Khánh đồng chùa Đồng là một minh chứng cho thấy nhân dân cũng nhau chăm lo, xây dựng, tạo mối quan hệ gắn bó giữa 3 ngôi chùa tại Dương Liễu. Hiện nay, quy mô và dáng dấp của chùa Hương Trai bề thế, cổ kính hơn so với chùa Bãi và chùa Đồng. Song với tấm lòng thành kính Phật, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Dương Liễu đã có kế hoạch tu bổ, tôn tạo ngôi chùa Đồng thêm khang trang, bề thế, xứng tầm để duy trì sinh hoạt văn hóa tâm linh, đồng thời truyền lại cho thế hệ mai sau di sản quý giá do cha ông để lại.

- Về giá trị nghệ thuật:

Giá trị nghệ thuật của chùa Đồng được thể qua các hạng mục như tiền đường ngoài, tam bảo (tiền đường, thượng điện), nhà khách cùng hệ thống đồ thờ, nội thất của di tích. Tuy các hạng mục kiến trúc chùa Đồng còn hạn chế về quy mô và cấu kiện gỗ chỉ được bào trơn đóng bên thiên về độ vững chắc song xét một cách tổng thể thì ngôi chùa vẫn mang trên mình phong cách nghệ thuật của ngôi chùa truyền thống và quan trọng hơn cả đó là một công trình văn hóa tâm linh được dựng lên từ tấm lòng chân thành, trong sáng, thiện tâm thiện tín của nhân dân.

Các hiện vật của chùa Đồng có phong cách nghệ thuật từ thời Nguyễn, thế kỷ XX-XXI là những tác phẩm nghệ thuật, yếu tố chính góp phần khẳng định giá trị nghệ thuật của di tích. Hệ thống tượng Phật có phong cách nghệ thuật thời Nguyễn với những đường nét tạo tác uyển chuyển, mang trên mình yếu tố thiêng liêng giúp nhân dân nhân diện được những nhân vật lịch sử của Phật giáo. Thông qua những pho tượng có vẻ ngoài uy nghi nhằm khuyên răn con người dưỡng tâm, dưỡng tính, tránh xa cái ác, những pho tượng nhân từ, gần gũi, hé lộ miệng cười mà mang phép thuật phổ độ, cứu giúp nhân dân, dẫn dắt con người hướng đến những điều chân thiện. Và rồi trong cuộc sống thương ngày, người dân dù ở cương vị nào, làm việc và học tập ở các lĩnh vực khác nhau, đến với chùa Đồng, văng vẳng tiếng chuông chùa, tiếng mõ tụng kinh đều cảm thấy thanh tịnh, nhẹ nhàng, bình yên và gần gũi, ấm áp.

Bên cạnh các pho tượng có giá trị nghệ thuật, chùa Đồng còn lưu giữ được quả chuông, khánh bằng chất liệu đồng được tạo tác theo phong cách truyền thống, đồng thời còn khắc những bài mình văn bằng chữ Hán có giá trị, qua đó cung cấp các thông tin về ngôi chùa, cảnh đẹp của chùa cũng với những tấm lòng quyên góp, cùng nhau xây dựng ngôi chùa thêm phần khang trang theo thời gian.

- Giá trị văn hóa: Chùa Đồng không chỉ là nơi thờ phụng các vị Phật, Bồ tát, mà còn là địa chỉ sinh hoạt, trung tâm văn hóa của nhân dân. Các dịp lễ tết, ngày hội truyền thống của làng, đặc biệt ngày lễ gắn với Phật giáo, nhân dân trong làng tề tựu đông đủ, thắp nén tâm hương và thực hiện các lễ nghi, ứng xử, mong cầu được sự an bình, hạnh phúc.

 

1 / 5 (1Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
Bình luận
    Danh mục
    Thống kê truy cập
    • Hôm nay: 61
    • Trong tuần: 134
    • Trong tháng: 2,819
    • Tổng số: 3,032
    • Đang online: 14