Logo Footer

CHÙA NGỌC TÂN

I. TÊN GỌI DI TÍCH

1. Tên gọi di tích được thống nhất sử dụng trong hồ sơ khoa học di tích:

Yên Sở là một làng cổ có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Người Việt xưa sớm đã đến vùng đất Yên Sở để sinh sống, khai khẩn đất đai, dựng làng lập xóm, biến các vùng sinh lầy hoang vu trở thành những làng quê trù phú, những cánh đồng tươi tốt, những rặng dừa xanh mát hiếm ngôi làng nào ở Thủ đô Hà Nội có được, đặc biệt nơi đây còn có các khu giao lưu buôn bán sầm uất, dân cư ngày càng đông đúc, phát triển. Trải qua hàng ngàn năm gìn giữ, bảo vệ quê hương, Nhân dân Yên Sở cũng đầy vinh dự, tự hào vì lịch sử đã để lại cho quê hương nhiều công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh có giá trị về nhiều mặt như: Quán Giá và rừng Giá cùng với 4 ngôi chùa thờ Phật.

Chùa Ngọc Tân nay thuộc xóm Bến thôn 5 là một trong bốn ngôi chùa thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội nay là xã Dương Hòa – Thành phố Hà Nội. Tên chùa được gọi theo tên Hán tự là "Ngọc Tân Tự". Theo lời kể của người dân địa phương, vị trí của chùa được dựng trên một gò cao, phía dưới là dòng sông cổ, nhưng nay đã bị lắp dần, sát với con sông xưa là xóm Bến, nên tên chùa được lấy là Ngọc Tân Tự, chữ "Tân" ở đây có nghĩa là bến, chùa Bến Ngọc.

2. Các tên gọi khác của di tích (nếu có) và nguồn gốc của tên gọi đó:

Ngoài tên gọi theo tên Hán tự, chùa còn được gọi theo tên năm là chùa Bến. Sở dĩ có tên gọi này vì chùa nằm ở xóm Bến, một xóm được hình thành từ rất sớm của làng gồm toàn các hộ buôn bán ở bến sông nên xóm có tên gọi là xóm Bến, còn có tên gọi là xóm Nại. Trang 17 cuốn Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân xã Yên Sở (1930-2000) có ghi: "thủa xa xưa, khi sông Hát còn là một nhánh của sông Cái đổ nước ra biển Đông thì con sông quê hương là một tuyến giao thông đường thủy vô cùng thuận tiện cho thuyền bè đi ngược về xuôi. Xóm Bến trở thành điểm dừng chân cho quý khách quá giang, nơi đón khách thập phương về trẩy hội Giá vãn cảnh quê hương".

II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ, ĐƯỜNG ĐẾN DI TÍCH

1. Địa điểm:

Làng Yên Sở trước đây có tên là Kẻ Giá, xa hơn nữa còn có tên là làng Cổ Sở (Theo Đại Việt Sử ký toàn thư có ghi: năm Bính Ngọ 1426, dân làng giúp nghĩa quân Lam Sơn đánh bại giặc Minh ở bến Cổ Sở. Đến năm 1529, bia đá ở Văn Miếu có khắc tên một người ở Kẻ Giá đỗ Tiến sỹ là Nguyễn Chiêu Khánh người làng An Sở, huyện Đan Phượng). Cái tên Cổ Sở có từ bao giờ, hiện chưa có tài liệu nào ghi chép lại, nhưng qua các dấu tích của người xưa để lại, cho thấy đây là mảnh đất có truyền thống lịch văn hóa hóa lâu đời, cụ thể:

- Năm 1959, xây dựng công trình thủy nông Đan Hoài qua đồng làng Yên Sở đã tìm thấy chày đá, rìu đá cổ.

- Di chỉ chùa Bãi, xã Cát Quế tìm thấy nhiều vũ khí cổ như: rìu chiến, búa chiến, mũi tên đồng có niên đại từ những năm 180-187 năm trước công nguyên. Bên cạnh vũ khí cổ, người ta còn tìm thấy nhiều công cụ sản xuất, đổ trang sức tiền ốc, đồ gốm và 11 sọ người...

- Di chỉ đồng Dền, gò Chiền Vây thuộc xã Di Trạch cũng là những di chỉ tiêu biểu cho giai đoạn văn hóa Gò Mun.

Từ những buổi đầu sơ khai, người dân đã quy tụ về vùng đất này cùng nhau khai hoang, lập làng, dần dần hình thành các xóm làng trù phú, kinh tế chủ yếu từ làm nông nghiệp trồng lúa nước, rau màu, chăn nuôi, trồng dâu nuôi tằm dệt lụa. Nét riêng của Yên Sở khác với nơi khác là nam giới chuyên cày cấy đồng ruộng, nữ giới chuyên chăn tằm dệt lụa, chính vì thế nghề tầm tang phát triển thịnh vượng, sản xuất tơ lụa nổi tiếng khắp vùng, do đó Yên Sở còn có tên là làng Giá Lụa.

2. Đường đi đến di tích

Chùa Ngọc Tân cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 22km. Từ trung tâm thủ đô Hà Nội có thể đi theo đường Đại lộ Thăng Long khoảng 18km, rẽ phải theo đường đê Song Phương, tiếp tục rẽ theo đê Tiền Lệ, đi qua Đắc Sở, đến chợ Giá. Chùa Ngọc Tân nằm ngay trên đường Quán Giá và chợ Giá, sát chân đê Tả Đày. Đường đi đến di tích thuận tiện cho mọi phương tiện.

III. LOẠI HÌNH DI TÍCH

Chùa Ngọc Tân là một công trình kiến trúc tôn giáo được dựng lên để thờ Phật. Căn cứ các kết quả khảo sát, nghiên cứu về di tích, phân loại di tích theo các tiêu chí xếp loại tại điều 11 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa, xét theo giá trị nổi bật, di tích chùa Ngọc Tân thuộc loại hình Di tích Lịch sử Nghệ thuật.

IV. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH

1. Về sự kiện, nhân vật được thờ tại chùa Ngọc Tân

1.1. Thờ Phật theo phái Đại thừa

Đối với người dân Việt xưa và nay tìm đến ngôi chùa như một điểm đến dưới sự thôi thúc của nhu cầu tâm lý, tâm linh. Chính vì thế chùa Ngọc Tân cũng như nhiều ngôi chùa làng khác được dựng lên với mục đích dùng giáo lý nhà Phật để đề cao tính khuyến thiện, trừng ác, giáo dục lòng nhân ái của cho con người, khiến cho họ biết hướng về điều lành, điều thiện.

Về sự hình thành và phát triển của Phật giáo có thể tóm tắt như sau: Cách đây 2560 năm (theo Phật lịch), tại thành bang Ca Tỳ La Vệ có vị vua tên là Tịnh Phạn, Hoàng hậu là Ma Ha Ma Da sinh hạ được một Hoàng tử tên là Tất Đạt Đa tại vườn Lâm Tỳ Ni. Khi sinh, Ngài tư bầm thông minh, hào quang trác khí, quý tướng khác người. Nhà vua, Hoàng hậu vui mừng khôn xiết.

Năm lên bảy tuổi, Ngài theo học phái Bà La Môn, thông tường các khoa nghị luận, triết học và bắt đầu chán nản cuộc đời vinh hoa phú quý và buồn đau cho thể cuộc nhân sinh. Năm 16 tuổi, Ngài vâng mệnh vua cha cưới ba vị phu nhân là La Gia, Gia Du Đà La, Lộc Già và sinh hạ được một quý tử là La Hầu La. Năm 19 tuổi, xuất phát từ lòng Từ - Bi - Hỷ - Xả, Ngài thấu hiểu Từ khổ của đời người không thể thoát khỏi: Sinh - Lão - Bệnh - Tử. Vì vậy, Ngài quyết tâm rời bỏ cung vàng gác tía, loan phượng lầu son để ra đi tìm chân lý, giải luận cho quy luật nhân sinh.

Ngài vào hang núi chịu đói rét tu luyện nhằm tìm ra phương pháp cứu con người thoát vòng khổ ải tại Khổ Hạnh lâm. Trong sáu năm tu luyện, Ngài không chứng được đạo quả gì nên liền đi tới núi Tượng Đầu bên sông Ni Liên Thiền tắm rửa. Tắm xong. Ngài thọ bát sửa của mấy năng thục nữ rồi một mình ở đó tịnh tọa suy xét dưới gốc cây Bồ đề.

Sau 49 ngày định tâm quán tưởng, Ngài bỗng thấy trong tâm sáng suốt, nhìn rõ vạn vật vũ trụ và lý giải được nguyên nhân của tử sinh. Ngài đã thành Phật và lấy hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Khi thành Phật, Ngài chu du khắp các lưu vực sông Hằng giáo hóa chúng sinh giác tỉnh, quy y tu hành, diệt mê muội, diệt khổ để chúng đạo Niết Bàn.

Năm 80 tuổi, Ngài tịch diệt tại thành Câu Thi La - Ấn Độ. Sau khi Đức Phật tịch diệt, Ma Ha Ca Diếp thay Phật thống suất tăng chúng, giảng tụng đạo lý của Phật đã thuyết. Lịch sử Phật giáo coi đây là cuộc kết tập chúng bộ lần thứ nhất. Từ đó, đạo Phật chia làm hai phái: Đại Thừa và Tiểu Thừa và truyền bá sang các vùng lân cận, trở thành một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới. Trải qua các thời kỳ kết tập, Phật giáo có lúc thịnh lúc suy, truyền đăng kế tổ.

Theo 越南佛教使客 (Việt Nam Phật giáo sử lược) thì truyền tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, từ Tây Trúc qua Trung Hoa truyền pháp, rồi truyền tiếp cho các vị tổ sư về sau. Tử Trung Hoa, Phật giáo du nhập vào Việt Nam. Tại Trung Hoa khi ấy có Ngài Ti Ni Đa Lưu Chỉ sang Việt Nam, lập thành vị Tổ thứ nhất phải Thiền tông, sau truyền cho tổ Pháp Hiền.

Thời thuộc Đường (820), có Ngài Vô Ngôn Thông sáng lập thành phải Thiền tông thứ hai ở Việt Nam. Tiếp đến là các phải Tháo Đường, Tào Động, Lâm Tế, Trúc Lâm Yên Tử...Sau khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, trải các thời Tiền, Lý, Đình, Lê, Lý, Trần... Phật giáo có lúc trở thành Quốc đạo, sau lại suy vì rồi hưng thịnh.

Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, đạo Phật tồn tại song hành với tư cách là một trong những tôn giáo phổ quát của nước ta, tạo thể cân bằng tâm linh trong cuộc sống. Do vậy, các ngôi chùa thờ Phật đã được xây dựng và phát triển.

Chùa Ngọc Tân làng Yên Sở cũng là một trong những ngôi chùa được khởi dựng với ý nghĩa như vậy. Hiện nay, trên Phật điện (tại Thượng điện) thờ các pho tượng Phật và Bồ tát như: Tam thế, A Di Đà, Thích Ca Niêm Hoa, An Nan, Ca Diếp.... Hai gian bên Thượng điện có tượng thập điện Diêm vương và đặc biệt gian bên tả có sự hiện diện của 2 pho tượng cha và mẹ của đức Phật là vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Maya; gian bên hữu có tượng của Quan Âm Tống Tử và bà chúa Tây Lăng.

1.2. Thờ Bà chúa Tây Lăng

Cũng như các ngôi chùa ở khu vực thượng nguồn sông Đáy, chùa Ngọc Tân cũng có ban thờ bà chúa Tây Lăng, người có công lao to lớn đối với nhân dân địa phương. Tượng bà chúa Tây Lăng được tạc ở tư thế ngồi trên hòn giả sơn, tay trái đặt trên lưng con ngựa. Theo truyền thuyết, bà Tây Lăng là người đã phát hiện ra một loại “sâu” hoang, ăn một loại lá hoang mọc rất nhiều ở chân núi Lân. Khi chín, loài "sâu" đó nhà ra một sợi tơ rất đẹp, rất bền để làm tổ chui vào đó hóa bướm, và sau khi hóa bướm lại cắn thùng tổ bay ra. Bà dạy dân nuôi loài “sâu” đó, đem loài cây hoang đó về trồng lấy lá cho sâu ăn, khi sâu làm tổ bằng tơ thì thu lấy tổ đem kéo tơ dệt vải. Con “sâu” đó được gọi là con tằm, cây hoang đó gọi là cây dâu. Từ núi Lân, nghề trồng dâu nuôi tằm nhanh chóng phát triển, lúc đầu là ở những vùng ven sông Đáy rồi sau lan ra cả xứ Đoài. Và xứ Đoài đó trở thành "quê lụa" với những trung tâm dệt lụa nổi tiếng như Vạn phúc, Cổ Đô... Lụa Cổ Đô ngày trước là lụa tiến vua, nên sớm vang danh cả nước. Ai đi qua xứ Đoài mà không biết đến câu ca “Lụa này là lụa Cổ Đô/ Chính danh lụa Tiến, các cô ưa dùng". Để nhớ ơn bà Tây Lăng, nhân dân đã tôn bà là bà chúa nghề trồng dâu nuôi tằm và lập đền thờ. Tại Yên Sở, Nhân dân quanh vùng xưa quen gọi Kẻ Giá là làng Giá Lụa. Giữa làng có một chợ chuyên mua bán chồi thao tơ lụa nên còn được gọi là Chợ Lụa. Đất dành chuyên canh cây dâu thường xuyên chiếm đến 2/3 diện tích đất bãi sông, thu hút đến 80% số hộ làm nghề này, các hợp tác xã thủ công dệt lụa làm ăn thịnh vượng, số khung dệt ngày càng gia tăng đem lại nhiều công ăn việc làm cho Nhân dân Yên Sở đã nhiều lần trở thành xã điển hình của xứ Đoài về phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm.

1.3. Thờ Tổ, thờ Mẫu:

Không chỉ là nơi thờ Phật, bà chúa Tây Lăng, chùa Ngọc Tân còn thờ các vị sư Tổ, thờ Mẫu, một loại hình tín ngưỡng dân gian của người Việt cổ được lưu truyền và tồn tại đến nay. Các nội dung thờ tự khác nhau tại di tích này trước hết nhằm đáp ứng đời sống tín ngưỡng tâm linh của nhân dân địa phương, nhưng đồng thời còn có tác dụng cố kết cộng đồng, khuyến thiện trừng ác, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, hướng con người đến các giá trị tốt đẹp và nhân văn, rất đáng được trân trọng và đề cao.

1.4. Các sự kiện khác

Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa từng là nơi hội họp của cán bộ cách mạng địa phương. Trong chùa còn có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, cất giấu vũ khí. Di tích đã góp phần đáng kể cho kháng chiến cứu nước.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng giống như nhiều ngôi chùa, đình trong vùng, chùa Ngọc Tân đã trở thành nơi gắn với nhiều hoạt động cách mạng của làng Yên Sở. Hiện nay, vào những dịp lễ cầu siêu rằm tháng 7, chùa đều tổ chức lễ cầu siêu cho các vong linh các liệt sĩ của làng Yên Sở đã hi sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

2. Đặc điểm:

Chùa Ngọc Tân được xây dựng từ lâu đời trên mảnh đất xóm Bến để thờ Phật theo phái Đại thừa đồng thời duy trì các sinh hoạt văn hóa tôn giáo Phật giáo đến cộng đồng dân cư mến mộ đạo Phật. Tương truyền, mẹ Đức Thánh Giá từng ở chùa này từ năm 554 SCN, sau đó tịch ở đây, xây dựng quán Giá ở sau chùa. Dấu vết vật chất sớm nhất hiện nay ở chùa là chuông đồng “Ngọc Tân hồng chung được đúc năm Cảnh Thịnh năm thứ nhất (1783). Trên chuông đã ghi rõ tên chùa, địa danh của chùa và những người công đức xây dựng chùa. Điều đó cho thấy chùa đã phải khỏi dựng từ trước đó, sau đó mới đúc chuông.

Chùa được khởi dựng vào năm nào đến nay chưa có những thông tin chính xác, nhưng trên từng công trình kiến trúc hiện nay còn ghi các dòng niên đại xây dựng, trùng tu. Trong đó niên đại sớm nhất hiện còn ở trên gác chuông-khánh được xây dựng vào thời Nguyễn. Câu đầu trái "Thái tuế Quý Mão niên Ất Sửu nguyệt Canh Tuất nhật, Canh Thìn thời thụ trụ thương lương đại vượng" (giờ Canh Thìn, ngày Canh Tuất, tháng Ất Sửu, năm Quý Mão - 1843 dựng thượng lương). Trên thượng lương khắc dòng niên đại tu sửa: "Thành Thái tuế thứ Canh Dần đông trưng tụ võ lượng công đức” (Đời vua Thành Thái năm Canh Dần - 1890 trùng tu do mọi người công đức). Điều đó cho thấy, Gác chuông được dựng vào năm 1843 đến năm 1890 được trùng tu.

Đằng sau chùa là có doanh trại bộ đội, bộ quốc phòng. Trong thời kỳ kháng chiến chùa bị xuống cấp, hư hại nhiều, do nền thấp, nằm gần sông Đáy nên nước sông ngập đến tận sân chùa năm 1971.

Năm 1994 xây dựng nhà Tổ, trên thượng lương viết dòng chữ Hán: "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Giáp Tuất niên chính nguyệt sư thập nhật thân bài thụ trụ thượng lương đại cát vượng".

Năm 1995 Tam bảo được tu sửa.

Năm 2003-2004 xây dựng nhà khách.

Năm 2010 lát lại nền sân chùa.

Năm 2012 cải tạo lại ao, tháp phía trước, xây dựng lầu Quan âm

V. KHẢO TẢ DI TÍCH

1. Giới thiệu tổng thể

Chùa Ngọc Tân quay hướng Đông Nam, tọa lạc trên ngã ba trục đường làng giữa đường đê Tả  Đáy và đường Quán Giá. Khuôn viên di tích khá rộng rãi, thoáng đãng cùng với ao làng ở phía trước. Các hướng Đông Nam, Đông Bắc đều giáp với đường đê Tả Đáy, phía Tây Nam giáp với khu dân cư của thôn 5. Chùa nằm ở phía trước quán Giá, cách khoảng 200m.

Theo lời kể của người dân địa phương nơi đây cho rằng, vị trí của chùa được dựng trên một gò cao, phía dưới là dòng sông cổ, nhưng nay đã bị lắp dần, sát với con sông xưa là xóm Bến, nên tên chùa được lấy là Ngọc Tân Tự, chữ “Tân" ở đây có nghĩa là bến, chùa Bến Ngọc.

Chùa Ngọc Tân tồn tại cho đến hiện nay đã được tu sửa nhiều lần, nhưng về cơ bản vẫn giữ được vị thế, quy mô của ngôi chùa xưa, bao gồm các hạng mục: Tam quan, Gác chuông khánh, Tam bảo (gồm Tiền đường và Thượng điện), nhà Tổ Mẫu, nhà khách, nhà vong (nay đã bị bỏ hoang).

2. Mô tả kiến trúc

a. Tam quan

Tam quan chùa Ngọc Tân gồm 3 cổng "Trung quan môn", "Không quan môn" và "Giả quan môn" (chữ Hán đắp nổi trên các cổng). Ba cổng này cũng thiết kế dạng vòm tạo thành lối đi, chồng diêm hai tầng mái có đao uốn cong. Cổng giữa "Trung quan môn có đắp bức cuốn thư đề chữ "Ngọc Tân Tự". Khoảng cách giữa các cổng là trụ biểu và tường lửng. Trụ biểu lớn được thiết kế gồm các phần: đỉnh đắp tứ phượng, dưới là ô lồng đèn, thân ghi câu đối bằng chữ Hán, để cổ bồng. Trụ biểu nhỏ được thiết kế diện mạo tương tự trụ biểu lớn nhưng đính là nghê chầu. Các tường lửng từ Trung quan nổi với trụ biểu lớn đắp nổi hoa văn chữ Thọ, trên trang trí triện móc. Tường lửng nối từ trự biểu lớn sang 2 cổng bên đắp tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai).

Tam quan chùa Ngọc Tân mới được dựng lại trong những năm gần đây, nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa về văn hóa, nghệ thuật, tỉ lệ phù hợp với không gian cảnh quan, kiến trúc công trình.

b. Gác chuông

Qua Tam quan và một khoảng sân rộng là đến hạng mục cổ kính nhất của chùa Ngọc Tân hiện nay là Gác chuông. Qua những dòng chữ Hán khắc trên câu đầu bên trái “Thái tuế Quỷ Mão niên Ất Sửu nguyệt Canh Tuất nhật, Canh Thìn thời thụ trụ thượng lương đại vượng" (giờ Canh Thìn, ngày Canh Tuất, tháng Ất Sửu, năm Quý Mão - 1843 dựng thượng lương). Trên thượng lương khác dòng niên đại tu sửa: "Thành Thái tuế thứ Canh Dần đông trúng tu vô lượng công đức" (Đời vua Thành Thái năm Canh Dần - 1890 trùng tu do mọi người cũng đức). Điều đó cho thấy, gác chuông có thể được xây dựng vào năm 1843 và trùng tu vào năm 1890. Đây là công trình kiến trúc còn bảo lưu được nhiều yếu tố nguyên gốc từ khi khởi dụng.

Kiến trúc Tam quan gồm 3 gian, chồng diêm 2 tầng mái, bờ nóc mái thượng để trong, 2 đầu đắp đấu đinh, tường hồi bít đốc 2 bên có cảnh phong và trụ biểu. Nền được làm cao hơn sân phía trước và phía sau bằng tam cấp và lát gạch Bát. Chịu lực chỉnh cho công trình, phần hạ là hệ thống tường tạo 3 lối đi tương ứng với 3 gian và kết cấu bộ khung với quá giang đứng trên bẩy hiện được đỡ bởi cột xây gạch hình chữ nhật. Phần thượng là hệ thống cột bằng gỗ có kích thước khá khiêm tốn đỡ câu đầu, trên có liên kết giữa các con rường chồng lên nhau qua đầu kê, theo hình thức "thượng chồng rường, hạ kẻ bảy". Khoảng cách giữa các cột trống phía trước và phía sau tầng thượng thiết kế hệ thống lan can bằng gỗ. Chiều cao của tầng thượng khá khiêm tốn, tại đây có treo 01 quả chuông thời Tây Sơn và 01 khánh đồng thời Nguyễn.

Khoảng nối giữa phần thượng và phần hạ là hệ thống sàn gỗ để trống một ô hình chữ nhật để tạo cầu thang bằng gỗ di chuyển giữa 2 tầng.

Bao che hai bên Tam quan là bức tường hồi tạo giật cấp, cánh phong nổi ra 2 trụ biểu ở cả phía trước và phía sau. Trụ biểu được thiết kế gồm: đình trụ đắp nghê, ở lồng đèn và thân soi gở kẻ chỉ đắp câu đối bằng chữ Hán. Tưởng cảnh phong trát mặt không trang trí, trên tưởng tạo diềm  hoa chanh.

c. Tam bảo:

Tam bảo bao gồm Tiền đường và Thượng điện, đây là công trình chính của ngôi chùa, có quy mô lớn nhất, là nơi bài trí nhiều tượng Phật. Nền Tam bảo được cao hơn nền sân, hiên được làm 5 bậc, lát bằng gạch Bát, mạch chữ Công.

Tiền đường gồm 5 gian xây kiểu tường hồi bít đốc, 2 mái chảy dân ngôi, chính giữa bờ nóc là cuốn thư trang trí rồng chầu, mặt hồ phủ và đề chữ “Ngọc Tân Tự", hai đầu bờ nóc đắp  đấu đinh, cuối hai mái chảy tạo nhị cấp và đấu đinh nổi ra cánh phong và trụ biểu. Cánh phong đắp chữ "Phúc" màu đỏ, trên tạo điểm hoa chanh. Trụ biểu được thiết kế gồm các phần: đình là nghê chầu, ô lồng đèn để trơn, thân ghi câu đối bằng chữ Hán, để tạo cấp hình chữ nhật.

Kết cấu bộ khung của Tiền đường mới được làm lại trong những năm gần đây bằng vật liệu bê tông sơn màu nâu giả gỗ. Các bộ vì và cột đều bằng bê tông làm theo lối cổ truyền, liên kết theo cách thức khác nhau: Gian giữa kiểu "thượng giá chiêng rường nách, hạ kẻ ngồi, bảy hiền", Gian bên kiểu "thương chồng rường, hạ kẻ ngồi, bày hiện", gian hồi kiểu vì kèo kẻ.

Thượng điện gồm 3 gian nối với gian giữa Tiền đường trên mặt bằng kiểu chữ Đinh, kết cấu bộ khung mới được thay bằng vật liệu bê tông, theo các kiểu thức khác nhau, riêng chỉ có bộ vì ở phía trước liên kết kiểu "thượng văn, hạ kẻ ngồi" còn giữ được các mảng chạm trên ván của công trình kiến trúc cũ, hình tam giác cân, chạm khắc hình hoa lá lão hóa hình rồng. Bộ vì thứ hai liên kết kiểu “thượng ván hạ cốn", cốn không phải một mảnh gỗ hình tam giác vuông đặc mà chạm hình độc long chỉ mang tính chất trang trí. Bộ vì áp tường hồi kiểu vì kèo đơn giản.

Bài trí tượng Phật tập trung ở khu vực Thượng điện. Ở vị trí cao và sâu nhất là ba pho Tam thế, tên đầy đủ là Tam thể thường trụ diệu pháp thân, tượng trưng cho "Tam thể tam thiên Phật (tức ba ngăn đức Phật trong 3 kiếp là: Quả khứ gắn với Trang nghiêm đại kiếp, Hiện tại gần với Hiền kiếp và Vị lai gần với Tỉnh Tú kiếp. Trong ba pho Tam thế tại đây, tượng Tam thế hiền kiếp ở giữa có tạo hình khác hai tượng Tam thế bên cạnh, ngồi ở vị trí cao nhất. Tam thế hiền kiếp được tạc trong thế ngồi trên tòa sen 2 lớp cảnh ngừa mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 19. Phía dưới là bệ tượng hình chữ nhật. Tượng Phật trong tư thế thuyết pháp, hai tay đan vào nhau. Áo tượng gồm 2 lớp, lớp trong thắt múi trước bụng, lớp ngoài áo choàng được tạc có đường gờ góc cạnh. Tóc bụt ốc nổi khối cao, khuôn mặt tròn đầy, mắt khép hờ, tai lớn. Hai tượng tam thế hai bên cùng ngồi trên đài sen.

Lớp thứ hai là bộ tượng A Di Đà Tam Tôn. Ở giữa là tượng A di đà cao được tạc tương tự như pho Tam thế ở giữa, với hai tay đan vào nhau, đặt trên đùi, lớp áo bên ngoài chạm khá góc cạnh. Tượng nhị vị Bồ tát đứng trên bệ sen.

Lớp thứ ba là bộ tượng Thích Ca Niệm Hoa ngồi giữa, hai bên là Ca Diếp và A Nan, là hai đại đệ tử của ngài. Phật Thích Ca trong tư thế ngồi, tay trái khoanh tròn lại đặt trên đùi, tay phải giờ lên cao kết ấn. Tượng An Nan và Ca Diếp đứng hai bên, có kích thước tương tự.

Lớp thứ tư là bộ tượng Quan Âm Thiên thủ thiên nhãn ở giữa và Văn Thù Phổ Hiền ở hai bên.

Lớp thứ tư là tòa Thích Ca Cửu Long được tạo tác khá cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 20. Ở chính giữa đặt tượng Thích Ca sơ sinh, bên ngoài gồm nhiều pho tượng Phật đứng bên trên. Hai bên là tượng Long Thần và Thổ địa.

Sát tường hậu bên phải Thượng điện đặt tượng Thánh Tăng. Diệm Nhiên - Đại Sỹ. Tượng Thánh Tăng là hình tượng một nhà sư đội mũ tỳ lư thất Phật, thường ngồi thả chân, tay trái cầm chén nước cam lỗ hoặc đề ngứa trong lòng, tay phải trong tư thể thuyết pháp cứu độ hoặc bắt ấn Vô Úy, ấn Cát Tường.

Sát tường hậu bên trái Thượng điện đặt bộ tượng Đức Ông và Già Lam -Chân Tề. Tượng Đức Ông Thường ngồi buông chân trên bệ, dưới dạng một ông quan văn đội mũ cánh buồm, mặt đỏ, nặng tính tượng trưng. Các tượng này đều mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 20,

Dọc hai bên hồi Thượng điện đặt bộ Thập điện diêm vương, Quan Âm Tống Tử, bà chúa Tây Lăng và cha mẹ của Phật. Các pho tượng này hầu hết mới được đưa vào trong giai đoạn gần đây.

Tại Tiền đường có đặt tượng Hộ Pháp Khuyến Thiện và Hộ Pháp Trừng Ác bằng chất liệu gỗ, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 20. Tượng có kích thước khá lớn mang ý nghĩa Khuyến Thiện và Trừng Ác để Hộ trì Phật pháp, được tạc theo kiểu võ sĩ cổ, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ, một vị tay cầm viên ngọc, vị kia tay cầm bình khí, trong tư thế ngồi. Tượng Khuyến thiện thường tô mặt trắng, nét mặt thanh thản, tay cầm viên ngọc thiện tâm. Tượng ngài Hộ pháp Trừng ác được tô mặt đỏ, có nét mặt thần giận dữ, tay cầm đao để trừng trị kẻ ác tâm như răn đe mọi người lánh xa con đường dẫn đến mọi cái ác xấu. Hình tượng Hộ Pháp trong đạo Phật có tên gọi đầy đủ là Hộ Pháp Vĩ Đà Tôn Thiên Bồ Tát. Đây là những Thiện Thần phát nguyện Hộ trì Phật pháp, những vị Thiện thần tự nguyện hỗ trợ đạo Phật.

Phía trên các cột treo bức hoành phi câu đối. Các di vật này cũng mới được đưa vào sử dụng trong những năm gần đây, góp phần làm phong phú thêm hệ thống đồ thờ cúng tại chùa.

d. Nhà Tổ Mẫu

Nhà Tổ Mẫu nằm phía sau, bên phải Tam bảo, gồm 3 gian, có không gian nội thất khá rộng rãi. Nền nhà cao hơn nền sân trước, hiện được làm 5 bậc, lát bằng gạch Bát mạch chữ Công. Kết cấu bộ khung gồm 5 hàng chân cột (3 trước, 2 sau), nhưng trống hàng cột cái để mở rộng không gian nội thất, hàng cột hiên ở phía trước xây bằng gạch. Toàn bộ nhà Tổ gồm 4 bộ vị, trong đó vì nóc ở gian giữa làm kiểu giá chiêng kẻ ngồi, vì nóc gian bên làm kiểu vân mê. Các vì nách gian giữa làm kiểu kẻ ngồi, gian bên làm cồn mê. Hiện trước làm kiểu kẻ, hiện sau làm bấy chéo. Trên các vì nóc, vì nách gian bên chạm khắc hình hoa văn con triện, kết hợp với là lật.

Bài trí nội thất của nhà Tổ Mẫu được làm đơn giản. Gian chỉnh giữa đặt bộ tượng Bồ Đề Đạt Ma, hai bên là tượng Tổ, ngồi trên bệ vuông chạm hình hoa văn con triện kết hợp với hình lá lật mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 20. Phía trước đặt bát hương, mâm bồng, đèn thờ... Gian bên phải đặt bàn thờ tam tòa thánh Mẫu, gian bên trái đặt ban thờ đức thánh Trần triều.

VI. CÁC DI VẬT TRONG DI TÍCH

Chùa Ngọc Tân hiện nay còn giữ được nhiều các di vật từ thời Lê Trung Hưng đến thời Nguyễn. Ngoài ra, một số hiện vật ở trong chùa được người dân trong làng bổ sung từ những năm giữa thế kỷ 20.

 

5 / 5 (2Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
Bình luận
    Danh mục
    Thống kê truy cập
    • Hôm nay: 55
    • Trong tuần: 128
    • Trong tháng: 2,813
    • Tổng số: 3,026
    • Đang online: 5