Logo Footer

ĐÌNH QUẾ DƯƠNG

I. TÊN GỌI DI TÍCH

Tên gọi được thống nhất trong hồ sơ: Đình Quế Dương là tên gọi theo địa danh làng Quế Dương được thống nhất trong hồ sơ khoa học của di tích. Ngoài ra tên gọi trên,di tích không có tên gọi nào khác.

Chùa Phổ Am là tên gọi thống nhất trong hồ sơ khoa học. Tên chữ là “Phổ Am tự”. Ngoài ra, di tích còn được gọi là chùa Dọc.

          II. ĐỊA ĐIỂM, ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH

          1.Địa điểm phân bố di tích

          a.Trước đây

          Theo sách tên làng xã Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, vào khoảng cuối thời Lê đầu thời Nguyễn, Quế Dương thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, Phủ Quốc Oai, Trấn Sơn Tây; sách Đồng Khánh địa dư ghi thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây; Danh mục cuối thế kỷ XIX ghi tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Nội; tài liệu năm 1893 ghi tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đông; Tài liệu năm 1901 ghi tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội; sách Làng xã Bắc Kỳ và Tài liệu năm 1932 ghi tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông . Năm 1965 thuộc tỉnh Hà Tây, năm 1975 thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, năm 1991 thuộc tỉnh Hà Tây. Từ ngày 01/08/2008 thuộc thành phố Hà Nội.

          b.Hiện nay

Đình Quế Dương, chuà Phổ Am tọa lạc chung trong cùng một khuôn viên thuộc tại thôn Quế Dương, Cát Quế, xã Dương Hòa, thành phố Hà Nội.

         2. Đường đi đến di tích:

Đình Quế Dương, chùa Phổ Am nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 25km về phía Tây. Để đến được di tích có thể đi bằng nhiều tuyến đường khác nhau, nhưng thuận tiện hơn cả là đường đi từ trung tâm Bờ Hồ theo đường Tràng Thi - Kim Mã - Cầu Giấy , thẳng theo Quốc Lộ 32, đến ngã ba thị trấn Trạm Trôi rẽ trái vào trung tâm huyện , đến ngã tư Sơn Đồng- Cát Quế rẽ phải vào đường Cát Quế khoảng 2 km là đến địa phận Cát Quế . Cụm di tích nằm cách UBND xã khoảng 2 km.

III. PHÂN LOẠI DI TÍCH

Đình Quế Dương, chùa Phổ Am là di tích kiến trúc thờ Thành hoàng làng và thờ phật của cộng đồng. Căn cứ điều 28 Luật Di Sản văn hóa, Luật sử đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 và xét những giá trị nổi trội của di tích thì đình Quế Dương, chùa Phổ Am thuộc loại hình di tích Lịch sử - Nghệ thuật.

IV. SỰ KIỆN , NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH

1. Khái niệm chung:

          Quế Dương là một vùng đất cổ được cổ được các lớp cư dân Việt cổ đến khai phá, lập làng từ rất sớm. Tại đây vào năm 1969 , Viện khảo sát cổ học Việt Nam khai quật di chỉ Vinh Quang tại chùa Đại Bi đã tìm được khu mộ táng với 13 sọ người thuộc nhóm người Anh- đô-nê- diêng và Nam- Á của tiểu chủng Mông-gô-lô-ít phương Nam đại chủng da vàng, chính là nhóm Lạc Việt là Tây Âu trong khối Bách Việt khoảng thế kỷ thứ IVđến thế kỷ thứ III trước công nguyên. Cũng tại di chỉ trên, qua nhiều lần khai quật đã tìm được nhiều hiện vật khác như pho tượng  người đàn ông bằng đồng ngồi đầu chít khăn, hai tay bó gối, nhiều di vật như: linh thủ, rìu chiến, búa chiến, mũi tên đồng, công cụ sản xuất tiền, đồ trang sức, đồ gốm. Các di vật trên giúp các nhà khảo cổ học nhận định các di chỉ có niên đại vào khoảng 1095 năm trước công nguyên thuộc thời kỳ văn hóa Gò Mun.

Quế Dương có tên nôm là Kẻ Sấu gồm ba làng (Quế Dương, Dương Liễu và Mậu Hòa) nên thường gọi là ba làng Sấu hợp thành tổng Sấu nổi tiếng trong vùng. Theo các nhà nghiên cứu thì những làng có các tên bắt đầu từ chữ “Kẻ…thường có lịch sử hình thành và phát triển rất sớm, ít nhất từ đầu Công nguyên.

Làng Quế Dương có tên Nôm là Sấu Vật (do có truyền thống về vật). Sách Đồng Khánh địa dư chí chép làng Quế Dương có truyền thống văn học, nhưng “có cả người vũ dũng” là nói về việc giỏi vật của làng. Quế Dương gồm các xóm: xóm Vắng (Đọ Trong, Đọ ngoài), xóm Đồng (Đồng trong, Đồng ngoài), xóm huyện (Huyện Nội, Huyện Ngoại), xóm Bùi (Bùi Tre, Bùi Đông, Bùi Trung, Bùi Tây), xóm Quê,. xóm Đông, xóm Lê,  xóm Chùa. Các xóm này hình thành cách đây khoảng 300 năm. Trước năm 1954, làng có các dòng họ Nguyễn, Lê, Trần, Phạm, Đỗ, Đặng, Ngô…

Theo văn bia”Tam giáp tạo Vĩnh Phúc tự bi” tại chùa Vĩnh Phúc, bia lập năm Vĩnh Thịnh (1719) thì Quế Dương có 3 giáp là An Vĩnh, Vĩnh Tây, Vĩnh Trung.

Trong quá trình sinh tụ, tạo lập xóm làng, người Quế Dương ngoài nghề trồng lúa nước còn có các nghề phụ như nghề trồng rau nuôi tằm, kéo tơ, dệt vải. Sau này phát triển thêm các nghề làm mật mía, miến dong…

Quế Dương là vùng đất địa linh nhân kiệt, vùng đất này được biết đến bởi những người đỗ đạt cao, làm quan to trong triều đại phong kiến được ghi chép trong các sách Đăng Khoa Lục như: ông Nguyễn Thúc Thông sinh năm 1415, đỗ Hoàng giáp tiến sỹ năm 1448 khoa thi Mậu Thìn, làm quan đến chức Tham chính; ông Nguyễn Tiến Sạn đỗ tiến sỹ năm Nhâm Thìn (1532), làm quan đến chức Đề hình giám sát ngự sử, Ngoài những bậc đại khoa, làng còn có 5 người đỗ Tam Tường thi Hội, 14 người đỗ Hương cống, Cử nhân.

Với bề dày truyền thống văn hóa lịch sử, Quế Dương còn giữ được hệ thống di sản văn hóa di vật thể và phi vật thể phong phú minh chứng cho quá trình phát triển của làng như; Đền vật (còn gọi là đình Đấu) xây dựng cách ngày nay trên 300 năm năm thờ Lý Phục Man, đền Mẫu thờ Liễu Hạnh công chúa, chùa Đại Bi, nơi phát hiện di chỉ khảo cổ Vinh Quang, chùa được xây dựng vào năm 1737 đời Trần; chùa Vĩnh Phúc còn lưu giữ được quy mô kiến trúc thời Lê Trung hưng và hệ thống di vật, hiện vật có niên đại thế kỷ XVIII- XIX và đặc biệt là hệ thống di tích điếm sàn khá độc đáo ở xã Cát Quế nói chung làng Quế Dương nói riêng. Điếm vốn ở từng xóm, chủ yếu thờ thần linh thổ địa cùng văn chỉ, võ chỉ, nhà thờ của các dòng họ khá đặc biệt và độc đáo mà hiếm có làng nào sánh bằng.

a. Đình Quế Dương:

Căn cứ các nguồn tư liệu hiện còn lưu trữ như bản khai thần tích thần sắc năm 1938, sắc phong lưu tại Quán Dương Liễu, thì đình Quế Dương thờ thành hoàng hiệu là Thông quyết khoan hoằng Ngũ Linh, Ngũ Thánh Đại vương; ngài vốn là Thiên thần, cũng  được thờ ở quán Dương Liễu, xã Dương Hòa hiện nay. Công lao, sự tích về Ngài Ngũ Linh, Ngũ Thánh hiện nay chưa rõ lai lịch. Vì vậy chúng tôi tạm căn cứ vào các nguồn tài liệu sau.

Căn cứ vào 14 đạo sắc phong niên hiệu thời Lê Trung Hưng hiện lưu giữ tại quán Dương Liễu (cùng thờ Ngũ Linh Ngũ Thánh) gồm sắc niên đại Dương Hòa thứ 5 (1639), sắc niên hiệu Dương Hòa thứ 8 (1647), sắc niên hiệu Phúc Thái thứ 7 (1649), sắc niên hiệu Khánh Đức 4 (1652); sắc niên hiệu Cảnh Trị 8 (1565); sắc niên hiệu Dương Đức (1672- 1673); sắc niên hiệu Chính Hòa 4 (1683); Sắc niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710); sắc niên hiệu  Vĩnh Khánh 2 (1730); sắc niên hiệu Cảnh Hưng 28 (1767);’ sắc niên hiệu Cảnh Hưng 44 (1783) đều ghi phong cho hần hoàng là Ngũ Linh, Ngũ Thánh Đại vương.

Về Ngũ Linh, Ngũ Thánh sách địa chí Hoài Đức, trang 322 ghi: “quán, Dương Liễu thờ  Ngũ Linh, Ngũ Thánh Đại vương. Theo bản khai thần tích thần sắc lưu tại Thư viện Thông tin khoa học xã hội thì đây là vị Thiên thần không rõ lai lịch không có duệ hiệu, chỉ biết ngày hiến Thánh là ngày 12 tháng 2,  được nhà nước phong kiến các đời phong là Trung đẳng thần…

 Học giả Nguyễn Văn Huyên người có nhiều công lao nghiên cứu về các làng quê, vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong cuộc Địa lý hành chính và tập quán của người Việt, trang 185 ghi: “Quế Dương và Dương Liễu có một ngôi miếu chung, ở đó thờ Ngũ Linh, Ngũ Thánh, là  một vị thần chế ngự ngũ linh (long, phượng, lân, quy, xà). Miếu này ở trên đất làng Dương Liễu, gần ngôi đình chung. Ngoài ra Quế Dương còn có đình thờ riêng: Ngũ Linh Ngũ Thánh dựng trên đất của Quế Dương…

 Từ những tư liệu nêu trên. Có thể nhận định vị thánh hoàng thờ tại đình Quế Dương là thiên thần, Ngài xuất hiện mang tư cách như những anh hùng văn hóa, được người Việt thờ phụng từ rất sớm với ước nguyện cầu mong cho cuộc sống được bình an, mưa thuận, gió hòa mùa màng tươi tốt, bội thu. Để ghi nhận công lao của thần đối với nhân dân các triều đại phong kiến đã ban tặng sắc phong với nhiều mỹ tự.

3. Chùa Phổ Am

Chùa có tên là chùa Dọc nằm trong khuôn viên đình Quế Dương. Tương truyền chùa được xây dựng từ rất sớm để thờ Phật. Chùa trước đây có quy mô rộng lớn. Đến năm 1937, đình Quế Dương được chuyển về vị trí hiện nay, phá bớt chùa để làm đình, vì vậy quy mô của di tích bị thu nhỏ lại.

 Cũng như các làng Việt truyền thống vùng châu thổ Bắc Bộ, chùa Phổ Am được dựng lên nhằm đáp ứng nhu cầu thờ Phật của người dân địa phương. Do có nội dung giáo lý phù hợp với tâm lý người Việt, nghi thức hành lễ lại giản dị nên đạo phật đã phát triển mạnh ở nước ta và có lúc trở thành Quốc giáo của nhà nước phong kiến Đại Việt thời Lý- Trần.

Sang thời Lê sơ, mặc dù nhà nước phong kiến đã lấy nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống để trị, vì đất nước, song Phật giáo vẫn có một vị thế đáng kể trong xã hội, được mọi giới thừa nhận ngay cả như vua Lê Thánh Tông, một người sùng đạo Nho, nhưng vẫn đi thăm viếng các chùa, cho dựng lầu “Vọng tiên” và thừa nhận; “Đạo của Thánh hiền (Nho Giáo) đều thiết dụng hàng ngày, mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng Pháp Lão”

Từ thế kỷ XVIII trở đi, kỷ cương Nho giáo suy đồi, người ta lại tìm đến Phật giáo, hiện tượng cúng hậu, cúng ruộng để xây dựng chùa chiền trở thành phổ biến, nhiều ngôi chùa do quan lại quý tộc đứng ra xây dựng. Qua nhiều thăng trầm, biến động của lịch sử dân tộc, nhưng ngôi chùa làng vẫn là biểu tượng thân thuộc của mỗi làng quê Việt Nam. Ngôi chùa vừa là dấu vết của kiến trúc Phật giáo, vừa là nơi gửi gắm niềm tin và ước vọng của nhân dân cầu một cuộc sống nó đủ bình an đồng thời là nơi giáo dục con người lòng từ bi, bắc ái.

V. SINH HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH

Theo lệ, hàng năm, cứ vào ngày 12 tháng 2  là ngày hiển Thánh của Thành hoàng. Công việc chuẩn bị lễ hội phải tiến hành trước một tháng do Chánh tổng, phó lý, hương trưởng đứng ra tổ chức, phân công; mỗi giáp đều phải cử các đại diện để làm nhiệm công việc được giao. Ngày nay, do trưởng thôn phân công cho các tổ trong làng.

 Lễ Mộc dục thường được tiến hành trước 15 ngày diễn ra lễ hội do Chánh tổng, Hương trưởng và đại diện mỗi giáp đảm nhiệm. Ngày nay do Hội người cao tuổi đảm nhiệm. Khi làm lễ dùng khăn màu đỏ, xong việc khăn làm lễ được chia lộc cho nhân dân để lấy phước, cầu may.

 Lễ vật, dâng cúng gồm xôi, gà cùng hương đăng trà tửu, kim ngân. Ngoài lễ chung do Ban khánh tiết chuẩn bị dâng lên Thành hoàng thì mỗi xóm, mỗi gia đình đều sắm sánh lễ vật riêng để thể hiện lòng cung kính đối với Thần hoàng làng.

Ban tế gồm 25 người gồm: Chủ tế, Bồi tế, Đông xướng, Tây xướng, hai người đăng lớn, hai người đăng nhỏ, còn lại là các thành viên dâng lễ. Theo quy định. Chủ tế và các thành viên đều mặc trang phục màu xanh.

Buổi tế đình Quế Dương cũng như các đình làng truyền thống diễn ra vào buổi sáng trong khoảng 3 tiếng đồng hồ, tuần tự qua 6 tuần tế gồm: tuần hương, hoa, quả, thực và 3 tuần rượu. Trước kia. buổi sáng cả làng Quế Dương và nàng Dương Liễu tổ chức tế riêng, buổi chiều long ngai - bài vị  của Đức  thánh được rước lên Quán Dương Liễu để hợp tế.

Sau tế lễ tại đình, long ngai - bài vị của Ngài được rước lên  quán Dương Liễu làm lễ rồi mới rước trở lại đình. Những người tham gia đội rước phải là thanh niên tráng khỏe mạnh chưa có gia đình.

5 / 5 (2Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
Bình luận
    Danh mục
    Thống kê truy cập
    • Hôm nay: 56
    • Trong tuần: 129
    • Trong tháng: 2,814
    • Tổng số: 3,027
    • Đang online: 7