LÝ LỊCH DI TÍCH NHÀ THỜ TIẾN SĨ NGUYỄN ÍCH TỐN
1. TÊN GỌI:
Nhà thờ tiến sĩ Nguyễn Ích Tốn là nơi phụng thờ, nơi tôn vinh và phát huy truyển thống hiếu học của dòng họ Nguyễn Chí. Trải qua năm tháng, nhà thờ vẫn là nơi hội tụ và tỏa sáng những giá trị trên nhiều phương diện. Nhà thờ tiến sỹ Nguyễn Ích Tốn là tên gọi chính thức của di tích. Ngoài ra, di tích còn có tên gọi là Nguyễn Từ Đường (Từ đường dòng họ Nguyễn).
II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH:
1. Địa điểm phân bố:
Mậu Hòa là một vùng đất cổ có từ lâu đời. Vào thời Hậu Lê, địa danh này thuộc về huyện Đan Phượng, trấn Sơn Tây. Cuối thế kỷ XIX, Mậu Hòa thuộc tổng Dương Liễu, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Đầu thế kỷ XX, Mậu Hòa thuộc huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông. Sau cách mạng Tháng 8/1945, thôn Mậu Hòa cùng với Dương Liễu, Quế Dương thành lập xã Dương Hòa. Năm 1946, Dương Hòa và Cát Khánh sáp nhập thành xã Dương Cát thuộc Đan Phượng. tỉnh Hà Đông sau thuộc huyện Liên Bắc (khi sáp nhập Hoài Đức và Đan Phượng năm 1948). Tháng 7/1956, Dương Cát tách thành ba xã, Mậu Hòa thuộc xã Minh Khai mang tên của nữ chiến sĩ cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai và tồn tại đến nay. Hiện nay thuộc xã Dương Hòa, thành phố Hà Nội.
2. Đường đi đến di tích:
Từ các con đường theo Đại lộ Thăng Long, đến cầu Tả đê sông Đáy rẽ phải ven theo triền đê hướng chợ Sấu khoảng 8 km đến Minh Khai, rẽ phải vào thôn Minh Hoà 1, theo con đường làng là tới di tích.
III. PHÂN LOẠI DI TÍCH:
Theo cách phân loại hiện nay được quy định trong luật Di sản Văn hóa năm 2001 và nghị định 98/2010/ND-CP ngày 21/9/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật Di sản Văn hóa và luật sửa đổi bổ xung một số điều của luật Di sản Văn hóa năm 2009, điều 11 thì nhà thờ tiến sĩ Nguyễn ích Tổn thuộc loại hình di tích Lưu niệm danh nhân.
IV. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH:
1. Sự kiện, nhân vật lịch sử:
Minh Khai là vùng đất cổ nằm bên dòng sông Đáy với vị thế địa quan trọng là đầu mối nối nhiều tuyến đường quan trọng. Với vị trí thuận lợi nhiều mặt đặc biệt là giao thông, Minh Khai nằm trong vùng đất được các lớp cư dân Việt cổ khai phá lập làng từ rất sớm. Các làng xóm trong xã cùng với các làng thuộc Dương Liễu, Quế Dương nằm trong vùng tổng Sấu là những làng rất cổ, người trong vùng thường gọi là ba làng Sấu "Kẻ Sấu” (Mậu Hòa được gọi là Sấu Mậu, Dương Liễu là Sấu Chợ, Quế Dương là Sấu Vật). Theo các nhà nghiên cứu, những làng có tên nôm là từ “kẻ” đứng trước một từ nôm khác thường khó xác định được chính xác ngữ nghĩa như: “kẻ Sấu”, “kẻ Giá”... là những làng rất cổ được hình thành cùng với quá trình dựng nước của dân tộc, từ thời các vua Hùng. Một minh chứng cho lịch sử vùng đất này đó phát hiện khảo cổ học tại di chỉ Vinh Quang thuộc địa phận xã Cát Quế năm 1969. Tại đây, viện khảo cổ học đã khai quật được nhiều công cụ sản xuất, đồ trang sức, tiền ốc... thuộc nền giai đoạn Gò Mun.
Như vậy, có thể khẳng định kẻ Sấu nói chung và Minh Khai nói riêng là vùng đất cổ có lịch sử hình thành và tồn tại từ rất lâu đời. Cùng với quá trình tụ cư sinh sống, nhân dân nơi đây đã kiến tạo nên những công trình tôn giáo tín ngưỡng để phục vụ đời sống văn hóa tâm linh trong đó có vai trò quan trọng của các dòng họ... đã gắn bó, sinh tổn trên cùng mảnh đất. Dòng họ Nguyễn Chí ở Mậu Hòa (còn có tên cổ là Mậu Lâm - Rừng Mậu vì tương truyền nơi đây là vùng rừng rậm) - Minh Khai hôm nay hiện còn lưu giữ được ngôi nhà thờ họ phụng thờ tiến sỹ Nguyễn Ích Tốn nhà khoa bảng thời Lê Sơ, một vị quan làm việc ở Viện Hàn Lâm giữ trọng trách về văn hóa giáo dục của triều đình và nhiều chức vụ quan trọng khác. Ông là một trong 28 ngôi sao trong hội “Tao Đàn nhị thập bát tú" do vua Lê Thánh Tông sáng lập.
Tìm hiểu về lịch sử dòng họ Nguyễn Ích ở Minh Khai, trải qua quá trình lịch sử hàng trăm năm kể từ khi cụ thủy tổ dòng họ - tiến sỹ Nguyễn Ích Tốn đỗ đại khoa làm rạng danh cho dòng họ. Do không được ghi chép và trao truyền qua các thế hệ nên đến nay các bậc cao niên trong họ cũng không biết rõ lý do tại sao từ khởi thủy là dòng họ Nguyễn Ích lại chuyển thành Nguyễn Chí. Hiện nay, còn rất ít các chi, nhánh trong họ giữ tên Nguyễn Ích mà đều chuyển thành Nguyễn Chí. Phải chăng, trong quá trình sinh cư ở một thời điểm lịch sử nào đó, dòng họ đã trải qua một biên động lớn liên quan đến tên gọi mà phải thay đổi cho phù hợp... Vấn đề này cần dược tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu...
Trở lại với bậc thủy tổ dòng họ: Nguyễn Ích Tốn tự Ấu Mẫn hiệu Hòa Đàm, người xã Mậu Hòa, huyện Đan Phượng, trấn Sơn Tây nay là làng Mậu Hòa xã Minh Khai, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Theo gia phả dòng họ Nguyễn: Ông sinh năm 1455, mất năm 1512 (có tài liệu ghi mất năm 1510, có tài liệu không ghi năm mất). Theo "Lược chuyện các tác gia Việt Nam, tr 258 ghi: Nguyễn Ích Tốn (1457 -?); Theo "Văn học Hán Nôm Hà Tây 10 thế kỷ" tr 125: Nguyễn Ích Tốn (14551510). Theo “Từ điển văn hóa Việt Nam”, phần nhân vật chí thì: Nguyễn Ích Tốn chính là cháu rể của nhà sử học Ngô Sỹ Liên (bên nội) và trạng nguyên Nguyễn Trực (bên ngoại). Đến nay, tuy không còn bất cứ nguồn tài liệu nào cho biết về đấng sinh thành, dưỡng dục vị tiến sĩ đỗ đạt nhưng có thể nói: ít nhất ông cũng được sinh ra trong một gia đình gia giáo, nền nếp, có truyền thống hiếu học... nên sự thành đạt của ông có nguồn gốc từ gia đình, dòng họ tên tuổi ở địa phương.
Từ nhỏ, ông vốn đã tỏ rõ là một người thông minh, ham học, tấm gương hiếu học của ông đến nay dân làng còn truyền tụng. Năm 30 tuổi, ông ứng thi khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân. Sau khi đỗ tiến sĩ, Nguyễn Ích Tốn làm quan thời vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497), dây là một thời thịnh trị “Vua sáng, tôi hiển" của nước Việt ta. Ông đã trải qua các chức quan:
- Hàn lâm viện kiểm thảo, trật tòng thất phẩm chức quan của Hàn lâm viện giữ việc soạn quốc sử, kiêm tú lâm cục tư huấn (Trưởng quan của tú lâm cục thuộc viện Hàn lâm).
- Hưng Hóa, Kinh Bắc thừa ty tham nghị, tham chính, tòng tam phẩm. Chức quan trấn thủ ở Hưng Hóa rồi sang Kinh Bắc (hai trong tứ trấn).
- Đại lý tự khanh: trưởng quan của Đại lý tự chuyên việc xét sử án, ở chức vụ này ông giữ trật chánh tam phẩm.
Binh bộ rồi lễ bộ Hữu thị lang bộ Lễ giữ việc nghỉ lễ, tế tự, khánh tiết, yến tiệc, trường học, thi cử, áo mũ, ấn tín, phù hiệu, chương tấu, biểu văn.....
Dưới các chức quan đã làm ông luôn giữ phép nước, tận tụy, hết lòng vì công việc, là vị quan thanh liêm, có nhiều đóng góp giúp dân, giúp nước.
Khi làm quan, Nguyễn Ích Tốn là vị đại thần trong viện Hàn Lâm giữ trọng trách về văn hóa – giáo dục - ngoại giao của triều đình. Với văn tải và đạo đức nổi trội nên ông đã được nhà vua tuyển chọn vào hội Tao Đàn do Lê Thánh Tông sáng lập. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư" tập 2, tr 513 của Ngô Sỹ Liên chép: Ất Mão (Hồng Đức) năm thứ 26 (1495) (...) làm sách Quỳnh Uyển cửu ca. Vua thấy hai năm Quý Sửu và Giáp Dần thóc lúa được mùa, đặt các bài ca vịnh để ghi diễm lành, nội dung gồm những bài về đạo làm vua, khí tiết bé tới, vua giỏi, tôi hiển, nhờ bậc anh tài kỳ tuần và viết vội thành văn (...) nhân gọi là Quỳnh uyển của ca thi tập. Sai bọn Đông các Đại học sỹ Đỗ Nhuận. Thân Nhân Trung (...); Hàn lâm viện kiểm thảo Phạm Câu Trực, Nguyễn Ích Tốn, Phạm Như Huệ... cùng họa vấn. Xét Củau ca thì tập bắt đầu làm trong năm nay".
Sự xuất hiện của hội Tao Đàn đánh dấu bước phát triển cao trào của phong trào sáng tác văn học cung đình do Lê Thánh Tông dễ xướng. Quan điểm văn học của hội là quan điểm nho gia chính thống, dùng văn học (ngòi bút) để phục vụ quốc gia. Nhà văn, nhà thơ sáng tác là nghĩ đến phép lớn của bậc đế vương thánh tiết (Mình quân - vua sáng). Hình thức hoạt động chủ yếu của hội là vua xướng. các hội viên phụng bình và họa vấn... Hầu hết các tác phẩm đều thể hiện tấm lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống cha ông, sự quan tâm đến nhân dân và ý muốn làm cho dân giàu nước mạnh...
Đánh giá về hội Tao Đàn, tác giả Tùng Quân đã viết bài "Hàn Lâm viện đầu tiên ở nước ta” đăng trên báo "Tài Hoa Trẻ số 119,120 ra ngày 20/7/2000: "... ở nước ta, chữ Hàn Lâm viện thấy xuất hiện lần đầu trong lịch sử vào năm 1086 dưới thời vua Lý Nhân Tông. Tất cả những vị khoa mục nổi danh trong nước đều được nhà vua phong chức Hàn Lâm viện học sĩ. Mãi đến năm 1495, vua Lê Thánh Tông mới sáng kiến thành lập một Hàn Lâm viện thực thụ dưới danh hiệu Tao Đàn nhị thập bát tú... và nhà vua là người giữ chức Hội trưởng Hội Tạo đàn. đứng đầu 28 văn nhân, thi sĩ và nghệ sĩ, được tuyển chọn từ những bậc nhân tài trong cả nước thời bấy giờ..."
Trong hai tám hội viên của hội "Tao Đàn nhị thập bát tú", tiến sĩ Nguyễn Ích Tốn là một trong những người đã họa đủ 9 bài thơ trong tập "Quỳnh uyển của ca". Thơ văn của ông đến nay còn lưu lại được 13 bài thơ và một bài văn viết về vị thần thờ tại đến Mậu Hòa. Các bài thơ gồm: Trũ thủy thao giang: Quân mình thần lương, Quân đạo: Thân tiết, Tư gia tướng sĩ: Lục vận động. Anh tài tử, Bách cốc phong đăng: Giao tường anh hiến; Kỳ thi; Thư thảo ký thành, Văn nhân, Mai hoa, Lục vận động,
Bài văn bia “Tổng đốc đại vương thần từ bí ký" (Bài ký ở đến thờ thán tổng đốc Đại vương) hiện còn lưu giữ tại di tích đền Mậu Hòa đến hôm nay là tư liệu quý góp tìm hiểu về lịch sử địa phương, về công lao của vị thành hoàng được nhân dân tôn kính phụng thờ. Xin lược trích bản dịch nội dung bài văn do Tiến sĩ Hoàng Hồng Cầm – viện nghiên cứu Hán Nôm dịch:
“Phía trên đầm liễu cây cối xum xuê, trông lên thấy đến thờ thần tổng đốc Đông Nga. Lý lịch sự nghiệp của ngài người viết sử không chép nên khó lòng dựa vào đâu mà xét thức hư... Truyền rằng ngài đã từng chiến đấu cho sự nghiệp giữ nước, lại được phong tước tổng đốc ... Lời nói của dân sao lại không có lý được. Huống hồ trong vòng trời đất chỉ có khí hạo nhiên. Khí ấy thật là to lớn, thật là tinh tường, thật là thuần túy vậy trên như chính thất tam quang, dưới như từ độc ngũ nhạc. Đất nước thiêng liêng chung đúc nên anh hùng hào kiệt thánh hiến. Lúc sống thì mở mang cơ nghiệp... khi mất lại góp công cùng tạo hóa, dành phúc lớn cho đời sau. Việc ngài được phong là phúc thần của một vùng có lẽ mới được bảo toàn được khí hạo nhiên ấy chăng. Dẫu linh thiêng đã thấy rõ tự lúc đương thời Cho nên, việc dân sùng phụng đối với ngài sẽ còn mãi đến vô cùng... Bên ghi lại những lời này vào tháng 5 năm Nhâm Thân niên đại Hồng Thuận thứ 4 (1512). Nguyễn Ích Tốn, tiến sỹ khoa Giáp Thìn, Hàn làm viện kiểm thảo kiêm từ lâm cục Tư huấn từng làm quan tham nghị, tham chính, các thừa ty Kinh Bắc. Hương Hóa, Đại lý tự khanh, Hữu thị lang bộ Lễ, bộ Bình, Bộ bình, thưa chính các sửThái Nguyên, Hải Dương, triều liệt đại đại phu, Tu thiện đoản, Hòa Đàm tự Âu mẫn dự Tao Đàn nhị thập bát tú viết bài kỳ này.”
Có thể nói Nguyễn Ích Tốn là người hiền tài, có những đóng góp với quê hương, đất nước. Khi đỗ đạt làm quan, ông là vị quan thanh liêm, tài đức vẹn toàn. Việc được vua Lê Thánh Tông tuyển chọn vào "Hội Tao Đàn" càng cho thấy tài năng của ông ở những lĩnh vực khác nhau... Ông mãi là người con ưu tú, là bậc đăng khoa của quê hương Minh Khai nói riêng và xứ Đoài nói chung. Với những đóng góp cho quê hương, đất nước sau khi mất, ông được an táng tại chính quê nhà nơi sinh thành dưỡng dục. Mộ của tiến sĩ hiện vẫn được gìn giữ bảo vệ chu đáo tại cánh đồng làng Dương Liễu.
2. Đặc điểm của di tích:
2.1 Niên đại xây dựng:
Tìm hiểu về lịch sử hình thành di tích và sự tồn tại của di tích trong quá trình lịch sử đến nay, để xác định niên đại của di tích, có thể dựa vào dấu tích và phong cách kiến trúc cùng hệ thống những tư liệu, hiện vật hiện lưu giữ tại di tích đề cập đến sự ra đời của nhà thờ. Hiện nay, không còn nguồn tư liệu thành văn nào ghi chép lại một cách chính xác niên đại khởi dựng của di tích. Kiến trúc hiện tại là dấu ấn của việc trùng tu lại những năm gần đây.
Theo lời kể của các cụ cao niên trong dòng họ, nhà thờ được khởi dựng vào thời Hậu Lê. Với các di vật hiện còn lưu giữ tại di tích hiện nay: hương án, ỷ thờ, giá văn... mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX, có thể đoán định di tích cũng được khởi dựng ít nhất ở thời điểm này hoặc sớm hơn (cuối thời Hậu Lê đầu thời Nguyễn). Điều này cũng phù hợp với niên đại theo lời kể cả các bậc cao niên trong họ.
Trước đây, nhà thờ họ ở khu đất bãi ngoài đê. Di tích bị hư hại trong kháng chiến chống Pháp. Những năm sau, do mưa lũ hàng năm nước dâng ngập lụt nên dòng họ đã chuyển nhà thờ về vị trí hiện nay vào năm 1952.
2.2. Quá trình trùng tu sửa chữa:
- Năm 1993, trùng tu lại nhà thờ.
- Năm 2012, trùng tu tổng thể lại nhà thờ chính, cổng, sân.
V. SINH HOẠT VĂN HÓA, TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH:
Nhà thờ tiến sĩ Nguyễn Ích Tốn là nơi phụng thờ một vị danh nhân đỗ đạt có tiếng của dòng họ Nguyễn Chí ở Minh Khai. Nơi đây là ngôi nhà chung của dòng họ, là nơi con châu mọi thế hệ cùng hướng về tiên tổ. Di tích ngoài việc phụng thờ bậc danh nhân còn là nơi diễn ra những sinh hoạt văn hóa liên quan đến dòng họ.
Tại nhà thờ, hàng năm có diễn ra những ngày lễ:
- Ngày 14/2 âm lịch: ngày họ chạp (họ khao), gặp mặt tất cả con cháu trong dòng họ nhân tiết xuân đầu năm. Vào dịp này, con cháu trong họ xa gần tề tựu về nhà thờ tỏ thắp nén tâm hương tưởng nhớ bậc tiên tổ có công khai sáng và làm rạng danh cho dòng họ. Cũng nhân dịp này, những người đi xa hoặc ít gặp mặt do điều kiện công việc có dịp gặp gỡ, trao đổi....
- Ngày 25/5 âm lịch: ngày giỗ cụ thủy tổ dòng họ (tiến sĩ Nguyễn Ích Tốn).
Đây là ngày lễ lớn của dòng họ. Vào ngày này, dòng họ tổ chức tế lễ, tưởng niệm bên cạnh việc hương dâng cúng giỗ như truyền thống. Cũng nhân ngày này, họ tổ chức phát phần thưởng và làm công tác khuyến học cho con cháu có thành tích học tập trong họ. Đây cũng là dịp con cháu trong họ tưởng nhớ đến bậc thủy tổ đã có công làm rạng danh dòng họ và giáo dục con cháu cùng noi gương các bậc tiên tổ để phấn đấu trong học tập và công tác.
VIII. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA HỌC, THẨM MỸ CỦA DI TÍCH:
Di tích nhà thờ là công trình kiến trúc chung của dòng họ rất phổ biến trong các làng xã cổ truyền ở nước ta đặc biệt là các dòng họ lớn, có nhiều người đỗ đạt, làm quan. Nhà thờ là nơi ghi nhận tấm lòng, sự tri ân của hậu thế với bậc tiên tổ, người đã có công lớn trong việc khai sáng và làm rạng danh cho dòng họ.
Nhà thờ họ Nguyễn Chí (Nguyễn Ích) ở Minh Khai phụng thờ bậc thủy tổ dòng họ - danh nhân tiến sĩ Nguyễn Ích Tốn là công trình văn hóa tín ngưỡng có giá trị nằm trong hệ thống các di tích của thôn Mậu Hòa: đình Mậu Hòa, chùa Địa Linh. Di tích còn tọa lạc ở vùng đất giàu truyền thống văn hóa, truyền thống hiểu học, khoa cử, nơi có nhiều các di tích phụng thờ những danh nhân đỗ đạt: Nhà thờ và lăng mộ tiến sĩ Phí Đăng Nhậm, nhà thờ, miếu thờ tiến sĩ Nguyễn Danh Dự (xã Dương Liễu), từ chỉ Trần Danh Tiêu (xã Yên Sở)…
Có thể nhận thấy giá trị của di tích trên các mặt chính sau:
1. Về giá trị lịch sử - văn hóa
Di tích phụng thờ tiến sĩ Nguyễn Ích Tốn - người con của quê hương Minh Khai, một nhà khoa bảng thờ Lê sơ, làm quan với nhiều chức vụ khác nhau, giữ những trọng trách quan trọng trong triều đình nhà Lê có công với dân, với nước. Ông là bậc danh nhân nổi tiếng xứ Đoài. Việc được vua Lê Thánh Tông chọn vào hội “Tao Đàn nhị thập bát tử" của nước ta thủa ấy được xem như viện Hàn lâm của một đất nước cho thấy tài năng và đức độ của người.
Trên lĩnh vực thơ văn, đóng góp của ông với 13 bài thơ hiện còn lưu lại trong các tác phẩm văn học thời trung trung cổ là những tác phẩm quý trong kho tàng di sản thơ văn của đất nước.
Với quê hương sinh thành, ông là người đã có nhiều đóng góp xây dựng. làm rạng danh cho vùng đất giàu truyển thống. Bài văn bia hiện còn lưu giữ tại đến Mậu Hòa hôm nay do ông soạn là tư liệu quý góp phần tìm hiểu về lịch sử địa phương, di tích, về vị thành hoàng làng đã có khai phá vùng đất, đánh giặc ngoại xăm, phù giúp đát nước, che chở muôn dân.
Trở lại với di tích, sự hiện tồn của ngôi nhà thờ họ cùng các di tích khác trải qua quá trình lịch sử đến hôm nay đã mang trong mình những giá trị nhất định góp phần vào việc nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của một vùng đất với bề dày lịch sử và truyền thống văn hoá. Mậu Hòa nói riêng và Minh Khai nói chung vốn là vùng đất có ẩn chứa biết bao nét đẹp của một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ với: cây đa, giếng nước, sân đình... cùng những con người chịu thương chịu khó... Trường tồn cũng thiên nhiên và con người nơi đây, di tích đã góp phần khẳng định và làm tôn thêm những giá trị truyền thống tốt đẹp đó.
2. Về giá trị Nghệ thuật: Các di vật hiện lưu giữ tại di tích như Giá văn, hương án, long ngai bài vị, hoành phi, câu đời, ý thờ, bát hương... mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX - XX là những di vật góp phần tìm hiểu về lịch sử nhà thờ. Phần lớn các di vật có khung niên đại khá muộn nhưng ở một góc độ nhất định đây cũng là những tác phẩm nghệ thuật thể hiện sự tài hoa, tinh tế của người nghệ nhân trong nghệ thuật tạo tác tạo nên cái hồn cho đi tích. Các di vật được chạm khác tinh xảo các đề tài trang trí truyền thống: rồng mây, hoa lá, hình học, văn triện....
Các trang trí trên kiến trúc bộ vì ở các thanh rường, đầu kẻ, cốn mê tuy được làm lại gần đây nhưng được tạo tác tỷ mỷ công phu. Nét chạm mềm mại đã lim giảm bớt sự khô cứng của kết cấu gỗ đồng thời đem lại cho di tích một diện mạo mới.
3. Về giá trị kiến trúc: Nhà thờ mới được phục dựng lại những năm gần đây, quy mô kiến trúc khiêm tốn do sự hạn chế về địa thế, kết cấu kiến trúc đơn giản nhưng phần nào cũng chứa đựng những giá trị của một di tích tín ngưỡng cổ truyển thể hiện kết các đơn nguyên kiến trúc mang phong cách kiến trúc truyền thống.
Như vậy, có thể khẳng định nhà thờ tiến sĩ Nguyễn Ích Tốn là một di tích tín ngưỡng đã và đang gắn bó mật thiết với đời sống cư dân nơi đây. Di tích mang trong mình những giá trị về lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, kiến trúc, tâm linh... góp phần khẳng định vùng đất này có lịch sử tạo dựng và truyền thống văn hoá từ rất lâu đời thể hiện ở một cơ cấu tổ chức làng xã hoàn chỉnh, chặt chẽ với những thiết chế, hương ước còn lưu lại đến hôm nay.
Nhà thờ nằm trong hệ thống các di tích của một làng Việt cổ mặc dù đã chịu những ảnh hưởng ít nhiều của quá trình đô thị hóa nhưng những nét truyền thống vẫn được bảo tồn. Bên trong không gian làng xóm là các mối quan hệ xóm giềng, huyết thống, tuổi tác... Những yếu tố đó làm cho mỗi người dân luôn gắn bó với làng quê mình và tự hào là nơi sinh thành, nuôi dưỡng bậc danh nhân đã làm dạng danh cho quê hương, dòng họ.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, tên làng xã đã có những thay đổi cùng sự đổi thay từng ngày của cuộc sống hiện đại nhưng có đổi thay đến đâu thì vùng đất này vẫn là nơi thân thuộc hội tụ và di dưỡng những truyển thống tốt đẹp với hệ thống những di tích lịch sử văn hoá đậm đặc, cổ kính hàng trăm năm tuổi. Nhà thờ sẽ là điểm dừng chân trong tuyến tham quan các di tích vùng ven đê sông Đáy với các công trình tôn giáo tín ngưỡng trải dài theo các xã: đình Phương Bảng, đình Tiến Lệ, chùa Vĩnh Phúc, đình Dương Liễu, chùa Hương Trai, đình chùa Mậu Hòa....
Di tích đã và mãi trở thành nơi tôn vinh, nơi giáo dục, phát huy truyền thống của các thế hệ con cháu trong dòng họ nói riêng và quê hương Minh Khai -Mậu Hòa nói chung. Ngôi nhà chung này luôn có ý nghĩa thiêng liêng đối với dòng họ. Đây là nơi phụng thờ bậc tiên tổ, danh nhân, nơi thể hiện dạo lý tốt đẹp của dân tộc ta “uống nước nhớ nguồn”, truyền thống hiếu học trọng người có đức có tài. Vào những ngày trọng đại của dòng họ, con cháu dù ở muôn phương đều tụ họp về nhà thờ để tỏ lòng thành kính với tổ tiên, gặp gỡ, trao truyền và tìm hiểu về cội rễ, nề nếp gia phong.
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn".
Câu ca xưa nhằm ca tụng tiên tổ, dòng họ, nhắc nhở con cháu luôn nhớ về nguồn cội. Tộc họ là hạt nhân cơ bản tạo nên làng xã, tôn vinh làng xã. Chính các dòng họ đã góp phần không nhỏ tạo nên bản sắc văn hóa làng xã Việt Nam. Muôn họ xum vầy, nghìn thu hương lửa, cái ý vun gốc nhớ nguồn cũng sâu xa lắm thay.
Sơ đồ phân bố hiện vật